Tình thuơng Thiên Chúa vượt xa lẽ công bằng theo quan niệm loài người. Và lòng nhân từ của Chúa còn đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn. Dụ ngôn trong Tin Mừng Chúa nhật XXV nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay, một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh chính yếu của nó là sự tự do...
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN, NĂM A:
Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Is 55, 6-9; Pl 1, 20c-24.27a; Mt 20, 1-16a
------†------
PHÚC ÂM: Mt 20, 1-16a
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết." Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao"? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?" Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết". Đó là lời Chúa.
1. Sự công bằng của Chúa
Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không phải là đường nẻo của các ngươi. Với dụ ngôn những người thợ giờ thứ mười một, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa đường lối và cách cư xử của Chúa.
Thật vậy, một người chủ thuê thợ vào làm trong vườn nho của mình. Những người thợ này được thuê vào những giờ giấc khác nhau. Những người được thuê vào sáng sớm với giá thoả thuận là một quan tiền một ngày. Những người thợ khác thì được thuê vào giờ thứ ba, giờ thứ sáu và giờ thứ chín. Nhưng cũng có những người được thuê vào giờ thứ mười một, nghĩa là vào một thời điểm rất muộn. Tuy được thuê vào các giờ khác nhau, nhưng họ lại kết thúc công việc trong cùng một lúc. Như thế, số giờ làm việc có khác nhau, nhưng số tiền mọi người lãnh được lại bằng nhau, kẻ đến sớm cũng như người tới muộn, mỗi người đều nhận được một quan tiền, theo sự thoả thuận giữa ông chủ và những người thợ được thuê sớm nhất. Cách đối xử của ông chủ đã làm cho những người đến muộn vui mừng, nhưng lại tạo nên sự bất mãn nơi những kẻ được thuê từ sáng sớm. Bất mãn vì không được hơn người tới muộn, mà cũng có thể là bất mãn vì người tới muộn cũng được lãnh như mình. Và ông chủ đã trả lời cho những kẻ bất mãn về lý do hành động của ông như sau: Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn hay sao?
Những ám chỉ của dụ ngôn thật rõ ràng: Ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa. Những người thợ được thuê từ sớm là những người Do Thái. Còn những người thợ giờ thứ mười một là tất cả các dân tộc khác, được gọi là dân ngoại. Dụ ngôn là câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người biệt phái và Do Thái, từng kêu trách về sự ưu đãi của Chúa đối với những người họ gọi là dân ngoại. Đồng thời qua đó Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa thì vượt lên trên tất cả những loại trả công của nhân loại. Tuy nhiên, không phải vì thế mà hành động của Ngài lại mang tính cách tuỳ tiện và bất chấp sự công bằng. Đối với Nước Trời, không có vấn đề buôn bán hay trả giá, mà hoàn toàn chỉ vì lòng nhân từ và thương xót của Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Là những người thuộc về một gia đình đạo gốc và bản thân vốn lại là người siêng năng sốt sắng, trung thành tuân giữ mọi điều răn, có thể là từ nhỏ cho tới lớn, chúng ta nhiều khi tự cho mình cái quyền được hưởng những ân huệ của Chúa hơn những người khác, nhất là những người chẳng hề biết đạo và thực hành đạo như chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý một điều: Thiên Chúa là Đấng yêu thương và Ngài đối xử với mỗi người chúng ta quá lượng chúng ta có thể mong ước và mường tượng ra được. Bởi đó thái độ căn bản sẽ là cõi lòng biết ơn và vui mừng trước những gì Thiên Chúa ban cho người khác, cũng như ban cho chính bản thân chúng ta.
2. Chủ vườn nho
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách giáo huấn: Nào là mùa nho tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp không có công ăn việc làm. Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống tối thiểu. Từ đó, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện dụ ngôn ngày hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài muốn làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các ông chủ trên trái đất này. Họ có bổn phận giữ sự công bằng với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Ngài không có một bổn phận như thế đối với loài người vì Ngài đứng ở bên kia sự công bằng của loài người, một sự công bằng được giới hạn bởi những gì chúng ta mắc nợ.
Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với sức cố gắng của một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, và cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Ngài có khả năng vô biên. Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân từ của Chúa còn đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn.
Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay, một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh chính yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị ràng buộc bởi bổn phận và những gì chúng ta mắc nợ người khác.
Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng buộc bởi kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp trả, một sự ban phát hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận mà thôi. Hơn nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ cũng như nếp sống của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên, bởi vì chính chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi, và nhiều đòi hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản duy nhất của lòng nhân từ Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những anh em ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn những gì do lòng nhân từ của Chúa gợi ra.
3. Chiến thắng lòng ghen tị – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được lãnh tiền công đúng như đã thoả thuận với chủ từ đầu, thế nhưng họ vẫn không hài lòng, lại còn lẩm bẩm kêu trách chủ vườn đã cho những người đến làm sau được hưởng đồng lương bằng họ. Họ tỏ ra bất bình và ghen tị với các đồng nghiệp chỉ vì những người nầy ít tốn mồ hôi hơn mà cũng được hưởng tiền lương bằng mình.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với Aben là người em yêu quý của anh chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của anh thì bị Thiên Chúa khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Ca-in đánh chết em.
Theo sách Samuen, Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Israel bằng cách giao chiến một-chọi-một với tên Gô-li-át khổng lồ thuộc phe Phi-li-tinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Israel thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Phi-li-tinh thù nghịch.
"Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn".
Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 17-18)
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ám chỉ đến lòng ghen tị của những người biệt phái đối với những người thu thuế và tội lỗi vì những người nầy được Chúa Giêsu yêu thương và tiếp đón.
Người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh.
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Nó vẫn chế ngự và tiếp tục khống chế con người cho tới khi nhắm mắt tắt hơi.
Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, chúng ta cần sáng suốt nhận thức hai điều nầy:
1. Sự may lành của người, sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta.
Thế giới nầy cần phải có nhiều người tài giỏi hơn bạn và tôi, càng nhiều càng tốt. Nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng bạn và tôi thôi thì làm gì có máy bay, có TV, có điện thoại di động và máy tính!...
Xã hội nầy cần phải có nhiều người giàu có hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nghèo như bạn và tôi thì lấy đâu ra vốn để đầu tư và phát triển và thế là quốc gia còn lâu mới thoát cảnh lạc hậu nghèo nàn.
Đất nước nầy cần có nhiều người trí thức hơn, thông thái hơn, khôn ngoan hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nông cạn và thiển cận như tôi thì làm gì có văn minh và tiến bộ.
Vậy thì hãy cầu mong cho có nhiều người trỗi vượt hơn ta về nhiều phương diện chứ đừng cầu mong người khác thua ta hoặc bằng ta, bởi vì: "con hơn cha thì nhà có phúc; sau hơn trước thì nước văn minh".
2. Tất cả mọi người làm nên một thân thể.
Qua Thánh Phaolô, Thiên Chúa bày tỏ cho nhân loại biết rằng muôn người trên thế gian cũng chỉ là một:
"Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" I Cr 12, 12-13)
"Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (I Cr 10, 17)
"Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người biết mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa." (Ep 3, 5-6)
Xin cho mọi người hiểu rằng mỗi người là một tế bào trong cùng một thân thể lớn lao là nhân loại. Nói khác đi, mỗi người chúng ta là một bộ phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia là phổi... Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì?
Tương tự, nếu như phổi mạnh lên thì toàn thân phải mừng cho phổi, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cơ thể khoẻ mạnh an lành; chứ nếu phổi lủng, phổi nám thì toàn thân cũng phải liên quan.
Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người;
Vì thế, thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em bè bạn chung quanh vượt lên khỏi ta mà tiến tới, ta hãy thành thật chúc mừng vì nhờ thế đất nước nầy sẽ được tiến bộ, văn minh hơn.
4. Ghen tương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ca dao Việt Nam có câu:
"Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng"
Ghen tương, tị hiềm là một mầm giống bệnh tật nằm trong bản tính con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Cain vì ghen mà giết Aben, bởi em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của Giacob ghen với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đâm vào Đavít. Đavít ghen với Uria. Vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông.
Có nhiều người ghen và cũng có nhiều chuyện để ghen. Ghen tương thường đi đến kết thúc thật bi thảm. Thù oán, giận hờn và đôi khi giết hại lẫn nhau mà vẫn không áy náy lương tâm.
Chắc hẳn chúng ta còn nhớ vụ kiện hai bà mẹ giành nhau đứa con trước tòa của Salômôn. Một bà nói: Hai chúng tôi ở cùng một nhà, nhưng con của bà ta bị chết vì bà nằm đè phải đứa con nên nó bị chết. Nửa đêm bà này thức dậy đánh tráo con tôi". Nhà vua vung gươm sáng loáng ra lệnh chặt đôi bé còn sống để chia cho mỗi bà một nửa. Nghe vậy, người mẹ thứ hai thưa rằng: "Xin bệ hạ trả cháu nhỏ cho bà kia, đừng giết cháu tội nghiệp". Bà thứ nhất thưa: "Cháu bé không phải của chị cũng không phải của tôi. Cứ phân đôi là công bằng". Nhà vua liền trao cho người mẹ xin đừng giết đứa bé, vì đó là người mẹ thật.
Quả thực lòng ghen đánh mất tính người: "Không ăn thì hắt đổ đi". Lòng ghen tương cũng mất tình liên đới với tha nhân, không chấp nhận người khác hơn mình. Và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có."Trâu buộc ghét trâu ăn" là thế. Kẻ ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Kẻ ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Với cá nhân, ghen tị biến thành kẻ ác nhân, nơi đoàn thể biến thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng... nhưng trong lòng lại "một bồ dao găm", chỉ toan tính hại người.
Ở Ấn Độ có dụ ngôn như sau: Trong triều đình có hai vị quan. Một người thì ganh tị, một người tham lam.
Để chữa trị những tật xấu ấy, vua cho triệu vời cả hai vào triều đình. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai người vì đã có công phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Họ xin gì được nấy. Tuy nhiên người nào mở miệng trước thì sẽ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan lặng thinh ngẫm nghĩ. Kẻ tham lam thầm nghĩ rằng. Nếu tôi nói trước thì sẽ được ít hơn, còn người ganh tị thì lý luận, tội vạ gì mà mình xin trước để tên kia lãnh gấp đôi. Cứ như thế chẳng ai dám xin trước. Cuối cùng nhà vua phải yêu cầu người ganh tị nói trước. Hắn bèn dõng dạc tuyên bố: "Nếu thế thì xin vua cho tôi được chặt đứt một cánh tay để tên kia bị gấp đôi". Sự ganh tị đã đánh mất tình người. Con người dễ dàng trở thành kẻ thù của nhau chỉ một miếng ăn, một chén gạo...
Dụ ngôn hôm nay muốn nói với chúng ta rằng đừng có ganh tị tham lam ích kỷ. Hãy tập "có sao chịu vậy" và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách chiến thắng lòng tham lam, bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tương.
Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng ai xứng đáng được thưởng một quan tiền. Người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn. Ai cũng có nỗi khổ riêng. "Thuyền càng to sóng càng lớn". Mỗi người đều có mối lo lắng riêng. Điều quan yếu Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho bạn, cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng. Mỗi người một hoàn cảnh. Mỗi người một cuộc sống khác nhau hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Amen.
5. Ca tụng hay kêu trách
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc – SJ.)
Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi đi vào làm việc trong vườn nho, mặc khải cho chúng ta một cách tuyệt vời về cung cách hành động của Thiên Chúa, và về khó khăn sâu xa có nơi mỗi người chúng ta, khi đối diện với cung cách hành động này.
1. “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia…”
Trước hết, Thiên Chúa được ví như ông chủ vườn nho, hành động giống như bao ông chủ vườn nho khác: sáng sớm ra khỏi nhà để đi tìm thợ, thỏa thuận về thời gian và tiền công (mỗi ngày một quan tiền) và sai họ đi vào làm việc trong vườn nho của mình. Ở bước này, cho dù là tương quan giữa ông chủ vườn và người làm công xem ra rất bình thường và công bằng, nhưng những người làm công vẫn được mời gọi nhận ra việc làm của mình là một điều may mắn, thậm chí là một ơn huệ, và nhất là nhận ra lòng tốt của ông, khi ông đich thân ra khỏi nhà để đi tìm người thợ, thay vì người thợ đi tìm ông chủ đề “xin việc”.
Chúng ta có nhận ra hiện hữu, cuộc đời, ơn gọi gia đình hay tu trì của chúng ta là một ơn huệ không? Chúng ta có nhận ra lòng tốt của Chúa để luôn tạ ơn và ca tụng Ngài không? Và để sống và làm việc trong tâm tình tạ ơn và ca tụng không? Hay chúng ta coi tất cả những ơn huệ nhưng không này như một thứ “quyền lợi”, để đòi hỏi Thiên Chúa, để so bì và ganh tị với nhau? Nhưng khi đòi hỏi và ganh tị, chúng ta dựa vào điều gì, phải chẳng là công lao hay thành tích của chính chúng ta?
2. “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho” (c. 3-7)
Thực vậy, phần tiếp theo của dụ ngôn, mỗi lúc một mạnh mẽ và vượt quá cách hành động thông thường của một người chủ, có thể có trong kinh nghiệm sống của chúng ta, nhấn mạnh đặc biệt đến chiều kích ơn huệ và lòng tốt khác thường của ông chủ: giờ thứ ba (9 giờ sáng), ông lại ra khỏi nhà đi tìm thợ; giờ thứ 6 (12 giờ trưa), ông lại đi nữa; rồi giờ thứ 9 (3 giờ chiều), ông lại đi nữa; và đây là tột đỉnh của sự khác thường, vào giờ thứ 11 (5g chiều), ông vẫn ra khỏi nhà đi tìm thợ làm việc!
Nếu trong những trường hợp trước, ông chủ chỉ hứa trả công một cách hợp lí: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”, thì trong trường hợp sau cùng, ông chỉ mời gọi đi làm việc: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”. Như thế, được hiện diện trong vườn nho là một ơn huệ hoàn toàn nhưng không, diễn tả lòng tốt của ông chủ; và điều này cũng đúng với những trường hợp trước và phải được nhận ra và được ngợi khen bởi những người thợ đi vào trước, và kể cả những người vào làm việc đầu tiên nữa.
Tuy nhiên, câu chuyện của dụ ngôn, vốn diễn tả sự thật về chính chúng ta, lại diễn biến theo hướng lòng ghen tị và lời kêu trách, thay vì theo hướng chúc mừng và ca tụng. Dân Chúa đã kêu trách và ghen tị trong sa mạc (x. Ds 21,4-9, bài đọc I của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá); và loài người và mỗi người chúng ta được mời gọi nhận ra bản thân mình nơi Dân Chúa.
Như thế, đúng ra những trường hợp trước phải được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp sau cùng, để nhận ra lòng tốt của ông chủ được thể hiện từ đầu đến cuối. Vì, nếu hiểu ngược lại, nghĩa là các trường hợp sau được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp đầu tiên, người ta sẽ hiểu lệch lạc về ông chủ và về người khác: từ đó, phát sinh thái độ kêu trách và ganh tị.
3. “Bắt đầu từ những người vào làm sau chót…”
Và dường như ông chủ cố ý làm cho lòng ghen tị và lời kêu trách lộ diện, khi ông trả công, đúng hơn là ban phát, cách quảng đại cho người đến làm việc sau cùng, trước mắt mọi người:
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.
Bởi vì, làm cho cái xấu lộ diện, chính là cách tốt nhất để chữa lành. Thực vậy, khi đến lượt nhóm thợ đầu tiên đến lãnh tiền công, họ được nhận đúng với lời thỏa thuận của ông chủ và của họ và điều này làm bật lên sự khác biệt giữa họ và những người khác. Nhưng thay vì họ chúc mừng những người đến sau (vì họ làm ít hơn mình, nhưng lại nhận được nhiều như mình) và ca ngợi lòng tốt của ông chủ (ông chủ không chỉ trà công sòng phẳng, nhưng còn ban phát rộng rãi cho người khác, theo lòng tốt của mình), họ vừa lãnh công và vừa cằn nhằn:
Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.
Trong lời này, hàm chứa hai thái độ: so sánh mình với người khác: “mấy người sau chót này”, và kêu trách ông chủ: “thế mà ông lại…”. Lời kêu trách của họ dựa trên những sự kiện rất khách quan và rất đúng: họ làm việc nhiều hơn và vất vả hơn người khác; nhưng người khác lại được hưởng bằng họ! Nhưng rất tiếc, những điều rất đúng và rất khách quan này lại được nhìn bằng con mắt ghen tị! Và vì ghen tị, nên trở nên mù quáng, không mở ra để nhận ra những sự kiện lớn hơn và đúng hơn: người khác thật may mắn và ông chủ thật tốt lành, để chúc mừng họ và ca ngợi ông chủ, đê đi vào trong niềm vui của người ban phát và của người lãnh nhận. Và vì ghen tị, nên cũng mù quáng với chính những gì mình đang có, bởi lẽ điều mình dang có không phải là quyền lợi, nhưng là ân huệ, và vì người lãnh nhận không chỉ là người khác, nhưng cũng là chính bản thân mình. Mình có niềm vui, nhưng lại tự biến niềm vui của mình thành nỗi buồn, gây chết chóc, cho mình và cho người khác.
* * *
Xin cho Lời Chúa, là Lời sẽ dẫn chúng ta đến “Lời Thập Giá” (x. 1Cr 1,18) chữa lành đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37); bởi vì nơi Thập Giá, chúng ta vừa nhìn thấy hệ quả khủng khiếp của thái độ ghen ghét (nhìn thấy để được chữa lành), và vừa nhận ra tình yêu đến cùng của Chúa dành cho loài người và từng người chúng ta (để ca tụng Chúa, thay vì kêu trách).
Nguồn "Giaophanvinh"