Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.
PHÚC ÂM: Mt 4, 12-23 (bài dài)
"Người vào Capharnaum để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã tiên báo".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Ca-pharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!"
Nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Đi xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN, NĂM A
Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Is 8,23b – 9,3; 1Cr 1,10-13.17; Mt 4,12-23
----------------
1. Ánh sáng thế gian
Chiều hôm ấy, hai cậu bé rủ nhau vào rừng chơi. Thế rồi một trận mưa bất thần đổ xuống. Mưa dai dẳng suốt hai tiếng đồng hồ. Đến lúc tạnh thì trời đã tối. Hai cậu bé vừa lạnh lại vừa sợ. Nỗi sợ hãi càng gia tăng khi hai cậu bé không còn tìm thấy con đường dẫn về nhà. Nhưng rồi một ánh sáng bỗng xuất hiện từ xa. Hai cậu bé khấp khởi mừng thầm. Cả hai đều cố gắng vừa kêu vừa gọi. Thì ra người anh đang cầm chiếc đèn đi tim hai cậu bé. Và cuối cùng đã đưa hai cậu bé trở về an toàn.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta có thể xác quyết: Đức Kitô chính là người anh của chúng ta. Vâng lệnh Chúa Cha, Ngài đã xuống thế, thắp lên một ngọn lửa hầu dẫn đưa chúng ta trở về quê trời. Chính vì thế mà từ ngàn xưa, các tiên tri đã nói: Dân ngồi trong tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã xuất hiện cho những người ngồi trong bóng sự chết.
Thế giới như đang chìm trong tăm tối và nhân loại đã quên mất con đường để trở về nhà. Nhưng rồi Đức Kitô đã đến như một thứ ánh sáng chói loà, xé tan bóng tối hầu soi sáng cho tâm hồn chúng ta. Ngài chính là ánh sáng, như chúng ta đã nghe Kinh Thánh xác quyết: Dân đi trong tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng. Trong phần đáp ca, chúng ta đã thưa lên: Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi. Và cũng theo Kinh Thánh, thì ánh sáng được tựng trưng cho chính Thiên Chúa, như chúng ta vốn thường tuyên xưng: Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng. Chính Ngài cũng đã từng tuyên bố với dân chúng: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống.
Đức Kitô là ánh sáng cho mỗi người chúng ta như thế nào? Xin thưa: Tất cả những khó khăn của đời sống đều được giải quyết trong ánh sáng của Đức Kitô. Điều gì là thật và điều gì là giả. Điều gì là thiện và điều gì là ác. Làm thế nào để đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu? Thế giới này là gì? Bản thân chúng ta là ai? Chúng ta bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta tìm kiếm, Ngài soi sáng và hướng dẫn để chúng ta hiểu được những điều đã nêu lên. Với ánh sáng của Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy giải đáp thoả đáng.
Ai trong chúng ta cũng đều có những khó khăn, chẳng hạn như: sức khoẻ, kinh tế, cô đơn, tình yêu. Đưa ra vấn nạn thì dễ, nhưng giải quyết được những vấn nạn ấy mới là sự khó và đáng nói. Thế nhưng, một khi chúng ta bước theo Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy con đường phù hợp, bởi vì Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Hơn thế nữa, Ngài chính là ánh sáng soi đường dẫn lối cho chúng ta.
2. Ơn gọi.
Như chúng ta đã biết nỗi ưu tư số một trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian. Chính vì thế mà ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài đã chọn cho mình những môn đệ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi Phêrô và Andrê: Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gioan. Thái độ của những môn đệ đầu tiên này thật là mau mắn và dứt khoát. Các ông đã bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay Chúa không hiện ra để kêu gọi chúng ta hay truyền dạy chúng ta phải làm điều nọ, điều kia, nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm gởi đến với chúng ta qua các sự kiện, qua các biến cố cuộc đời. Bởi vì mỗi biến cố là một dấu chỉ của thánh ý Chúa. Mỗi sự việc là một bài toán mà đáp số là sứ điệp Chúa muốn chúng ta đón nhận. Vì thế, cần phải tỉnh thức để nhận ra ý Chúa và sứ điệp của Ngài.
Thực vậy có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa, một thứ tiếng vọng lên từ bên trong, tuy âm thầm nhưng rất rõ, mời gọi nhưng không kém phần thúc thách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một khúc quanh mới của đời mình và từ đó bản thân được đổi khác.
Ơn gọi của Mẹ Têrêsa Calcutta là một thí dụ. Mẹ sinh năm 1910 tại Nam Tư. Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng Đức Bà Lorettô ở Ái Nhĩ Lan. Sau đó được cử sang Ấn Độ để vào tập viện. Mẹ đã cống hiến gần 20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng dành cho các thiếu nữ thuộc những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ trôi đi êm đềm bên đám học trò giàu có. Thế rồi vào một ngày nọ, nhân đi qua một đường phố ở Calcutta, Mẹ bắt gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã kéo đến gặm nhấm con người bất hạnh đó. Mẹ liền vực người thiếu phụ tới nhà thương. Mẹ nhất định cứ đứng ở trước cổng cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết. Từ biến cố này Mẹ cảm nhận được lời mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hiến mình cho những kẻ bị bỏ rơi. Và thế là Mẹ xin ra khỏi dòng, đến sống ở một khu vực tăm tối của thành phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không ngờ mình sẽ là người sáng lập một hội dòng mới chuyên lo việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ.
Lắng nghe và tìm biết ý Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện đã đành. Điều quan trọng hơn là có dám đáp trả lời mời gọi của Ngài hay không. Nhiều khi chúng ta đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ như không hề nghe thấy tiếng Chúa, để khỏi phải đáp trả, khỏi phải từ bỏ. Bởi vì chúng có quá nhiều những sợi dây vấn vương quấn chặt lấy cuộc đời và bản thân, khiến chúng ta không dễ gì tháo gỡ được. Những sợi dây vấn vương ấy là tiền bạc, địa vị, vui thú… Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Chúa là giá trị tuyệt đối, vượt lên trên tất cả. Và như thế phải có tình yêu mãnh liệt mới có thể từ bỏ lập tực những gì chúng ta đang ôm ấp bởi vì từ bỏ là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Chúa.
3. Galilê, vùng dân ngoại.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi Gioan bị bắt, Đức Giêsu đã lánh qua Galilê.
Galilê là vùng ven, ít nguy hiểm cho Ngài. Dân cư ở đây phần đông là dân ngoại. Người Do Thái ở đây bị coi là những kẻ sống bên lề Dân Chúa. Nhưng Galilê lại là nguyên quán của Ngôi Lời làm người, và là nơi Đức Giêsu chọn để bắt đầu thi hành sứ vụ.
Từ Galilê, Ngài sẽ sai môn đệ đi khắp thế gian (Mt 28,19).
Đức Giêsu rời bỏ Nadarét, để đến cư ngụ tại Caphácnaum. Caphácnaum là địa bàn hoạt động được Ngài ưa thích. Có lúc nó được gọi là thành của Ngài (9,1), dù bất xứng (11,23).
Galilê, Nadarét, Caphácnaum chẳng có chút tiếng tăm (Ga 1,46), nhưng Đức Giêsu vẫn là một ngôn sứ xuất thân từ đó (Mt 21,11).
Hãy ngắm nhìn Đức Giêsu trên những nẻo đường.
Ngài rút về Galilê, Ngài đến Caphácnaum, đi dọc theo bờ biển. Khắp miền Galilê in dấu chân của Ngài (Mt 4,23), Ngài không vào hoang địa như Gioan, rồi gọi người ta đến. Ngài đích thân đến với con người ngay giữa đời thường. Ngài cứ đi không nghỉ, không đóng đô ở một chỗ. Nhu cầu quá lớn không cho phép Ngài dừng lại (Mc 1,38). Đức Giêsu chuyển động và kéo người ta chuyển động theo Ngài.
Những người đầu tiên là các ngư phủ mà Ngài quen biết. Tuy là những người ít học, không giàu có hay địa vị, nhưng đối với Ngài, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Ngài.
Sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi. Sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung. Sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh. Khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ.
“Các anh hãy theo Tôi”: một lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Tôi và chia sẻ thao thức của Tôi.
Để lên đường cần bỏ lại cái êm ấm được phép, êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới.
Theo Chúa là chấp nhận ra khơi hay đúng hơn là chấp nhận lên bờ, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, là để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người, và tận tụy cho sứ mệnh loan báo Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần bên.
Để đón lấy quà tặng đó, cần sám hối, hoán cải.
Hoán cải là để Ngài kéo vào một chuyển động, là quay lại, là bỏ con đường mình đã quen từ lâu, để đi cùng chiều với Chúa và ngược chiều với cái tôi ích kỷ.
Đức Giêsu gieo rắc niềm vui khắp nơi.
Niềm vui cho người nghe, niềm vui cho người khỏi bệnh. Bước chân không mỏi, lời nói thiết tha, trái tim gần gũi?
Hôm nay Hội Thánh vẫn sống giữa những Galilê dân ngoại.
Chúng ta có đủ niềm vui để làm Galilê bừng sáng không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Đi kèm với lời giảng, Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo ý bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần phải làm gì kèm theo, để dễ được người nghe đón nhận?
Đức Giêsu đã gọi bốn bạn trẻ khi họ đang tất bật với cuộc sống. Có khi nào Chúa gọi bạn lúc bạn đang vất vả kiếm sống không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay. Có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
4. Lựa chọn của Chúa Giêsu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.
Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.
Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?
2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?
3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?
5. Ơn cứu độ phổ quát – R. Veritas.
Đức Thánh Cha Phaolô II đã có lần mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo Hội tại Mỹ Châu, hãy tìm giải pháp cho những vấn đề trầm trọng đang tác hại tại lục địa này. Chúng ta hãy cùng lắng nghe một đoạn trong bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ cử hành tại Guadalupe, Mexico:
Giáo Hội đã có Tin Mừng sự sống và sự can đảm của tiên tri, Giáo Hội lại có các nền văn hoá của chết chóc. Ước gì đại học của hy vọng này cũng là đại học của sự sống, đấy là tiếng báo động lớn của chúng ta, hãy kiến tạo một cuộc sống mới xứng đáng cho tất cả mọi người, cho các thai nhi đã được cưu mang trong lòng mẹ, cho những trẻ em bụi đời sống ngoài đường phố, cho những người dân bản xứ, cho những người dân Phi Châu, cho những người di dân vì tị nạn, cho những người trẻ chiếm nhiều cơ hội để thăng tiến đời mình, cho những người già cả, cho tất cả những ai đang nếm trải sự nghèo khổ hay bị loại ra bên lề xã hội.
Đã đến lúc chúng ta phải nhất quyết loại trừ ra khỏi đại học Mỹ Châu này bất cứ sự tấn công nào chống lại sự sống. Xin đừng bao giờ có bạo lực, đừng bao giờ có khủng bố và buôn bán ma túy, đừng bao giờ có nạn tra tấn, hay những hình thức lạm dụng khác, cần phải chấm dứt việc kết án tử hình, đừng bao giờ có nạn khai thác bóc lột những kẻ yếu thế, đừng bao giờ có nạn kỳ thị chủng tộc, đừng bao giờ có những khu ổ chuột cùng khổ, đừng bao giờ có những tệ nạn như vậy. Đó là những tệ nạn không thể dung chấp được, những tệ nạn này kêu thấu đến tận Trời cao và mời gọi các tín hữu Kitô hãy có một nếp sống khác, hãy dấn thân vào trong xã hội, mục kích phù hợp hơn với đức tin của mình”.
Những lời trên đây của vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ là một tiếng vang của chính Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã mang đến cho nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm. Hiện nay tại các nhà thờ Anh Giáo bên Anh Quốc, người ta đang thấy trưng bày những tấm bích chương có vẽ hình Chúa Giêsu giống hệt dung mạo của nhà cách mạng nổi tiếng Thêghê Bara, ông là một bác sĩ, đã từng là bạn của chủ tịch Fidel Castro, người Cuba. Ông muốn quảng bá lý tưởng cách mạng bạo động cho toàn thể Châu Mỹ Latinh, thế nhưng ông đã ngã gục vào giữa thập niên sáu mươi.
Chúa Giêsu quả thật là một nhà cách mạng nhưng Ngài không hề có chủ trương dùng bạo động để thực hiện cách mạng. Hơn nữa, cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã thực hiện càng không có tính cách chính trị, kinh tế hay xã hội. Cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu thực hiện qua chính cuộc sống của Ngài và được Giáo Hội tiếp tục giảng dạy và thể hiện thiết yếu là cuộc cách mạng bản thân. Tính cách mạng ấy được Chúa Giêsu thốt lên khi bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài: “Hãy hối cải vì Nước Trời đã đến gần”.
Trong chương trình cách mạng ấy của Chúa Giêsu, chúng ta bắt gặp lẽ khôn ngoan nghìn đời của các nhà hiền triết Đông Tây: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Có tu thân nghĩa là cố sống cho ra người thì người ta mới có thể lãnh đạo gia đình, cai trị đất nước và mang lại thái bình cho thế giới.
Khi nghe lời kêu gọi hòa bình của Giáo Hội, nhà độc tài Stalin đã thách thức, thử hỏi xem Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Có thể Stalin đã quên lời nhận xét của người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản là Lênin như sau: “Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô nghèo, thì cũng đủ để cải tạo xã hội Nga”.
Quả thật ở bất cứ thời đại nào, thế giới cần nhiều vị thánh hơn là những con người tài ba. Khoa học và kỹ thuật đang tiến bộ với tốc độ nhanh chóng khiến chúng ta phải chóng mặt, các tiện nghi ngày càng tối tân, con số các nhà tỷ phú trên thế giới ngày càng gia tăng, của cải do con người tạo ra ngày càng ứ đọng, vậy mà tình hình thế giới được các phương tiện truyền thông đưa lên vẫn là một bức tranh xám xịt. Chiến tranh, chết chóc và nhất là đói khổ vẫn còn bao phủ phần lớn địa cầu của chúng ta. Bên này bán cầu thừa mứa của cải vật chất, thì bên kia bán cầu còn tới không biết bao nhiêu người đang lâm cảnh chết đói. Trong một quốc gia, một thiểu số nhỏ kẻ nắm giữ trong tay phần lớn của cải, còn số đông phải quằn quại trong khốn khổ. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy giải pháp cho vấn đề nằm ngay trong chính lòng con người, bao lâu vẫn còn có những người chiếm giữ quyền hành trong tay và chối bỏ những quyền cơ bản nhất của người khác thì bấy lâu vẫn còn có một số người phải quằn quại đói khổ. Bao lâu con người chưa hối cải và sống cho ra người thì bấy lâu thế giới vẫn không bao giờ có được hòa bình thật sự.
Hãy hối cải, hãy sống cho ra người, nếu chúng ta quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này của Chúa Giêsu trong môi trường sống của chúng ta hằng ngày, thì không những chúng ta đóng góp vào cuộc cải tạo xã hội mà còn chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng, Nước Trời thực sự đang đến.
Đó là niềm xác tín, đó là niềm tin của chúng ta, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau nài xin Chúa ban cho chúng ta niềm tin này.
6. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
(Để minh họa cho sứ điệp của Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử phác hoạ tâm trạng của Simon Phêrô khi được gọi làm tông đồ và được Chúa Giêsu trao trọng trách trong Giáo Hội)
Hôm ấy, tại thành Xêdarê Philípphê, sau khi Simon Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và được Chúa Giêsu long trọng tuyên bố trước mặt các môn đệ: “Simon, Anh là Tảng Đá, và trên Tảng Đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy… Thầy sẽ trao cho Anh chìa khoá Nước Trời. Những gì Anh cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, những gì Anh tháo cởi dưới đất, trên Trời cũng tháo cởi” (Mt 16, 13-19)… thì liền sau đó, Simon Phêrô đâm ra đăm chiêu nghĩ ngợi. Simon vẫn nghĩ rằng một người thuyền chài quê mùa chất phác như mình thì chẳng làm được gì khác ngoài việc quăng chài hay kéo lưới.
Đêm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những lời Thầy vừa công bố và trong thinh lặng của màn đêm, Simon hồi tưởng lại buổi sáng đẹp trời cách đó không lâu trên biển hồ Galilê, đang khi ông và An-rê đang quăng chài dưới biển thì Thầy tiến đến. Thầy giơ tay vẫy chào và cất tiếng gọi mời: “Các Anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các Anh thành những kẻ lưới người như lưới cá!”
Lời Thầy có sức cuốn hút nhiệm mầu. Thế là hai anh em bỏ thuyền bỏ lưới theo Thầy.
Đi một quãng nữa, Thầy gặp hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Thầy lại cất tiếng mời gọi, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Thầy. (Mt 4, 18-22)
Thế là bốn bạn chài quê mùa xứ Galilê bỗng nhiên trở thành những môn đệ đầu tiên của Thầy Giêsu, được gọi lên đường chinh phục thế giới…
Đang mơ màng với dòng suy tưởng, Simon chợt thấy Thầy mới trở về sau giờ cầu nguyện, Anh liền mời Thầy ra ngoài góc sân và nói:
“Thầy ơi! Tại sao sáng nay Thầy lại đề cao con quá vậy? Con đáng sá gì mà Thầy đặt con làm Đá Tảng cho Thầy xây Hội Thánh, con có là gì mà nắm giữ chìa khoá Nước Trời! Thầy không nhớ con xuất thân từ một gã thuyền chài ư? Sao Thầy không chọn những luật sĩ uyên bác? Sao Thầy không tìm người lãnh đạo nơi hàng ngũ những người biệt phái uy tín và đạo đức mà lại chọn dân chài như chúng con?
Chúa Giêsu ôn tồn vỗ vai Simon: “Simon, đừng lo! Đây không phải là việc của con người mà là việc của Thiên Chúa. Rồi đây các Anh sẽ là những người thay đổi bộ mặt thế giới”.
* * *
Để chinh phục thế giới, Thiên Chúa đã chọn bốn người thuyền chài làm những môn đệ đầu tiên và lại giao cho ngư phủ Simon Phêrô thay Ngài lãnh đạo Hội Thánh.
Tại sao Chúa Giêsu lại trao cho hạng ngư phủ đảm nhận những cương vị hết sức hệ trọng nầy?
Phải chăng tiêu chí đầu tiên của Chúa Giêsu khi tuyển chọn môn đồ và những người kế vị mình trong sứ mạng cao cả và đầy gian truân là phải dạn dày sương gió, là không ngại khó, sẵn sàng đối đầu với bão tố cuồng phong? Ngư phủ là những người vốn có những tố chất như thế trong máu thịt mình.
Nếu không có những con người dạn dày sương gió như thánh Phanxicô Xavie vượt đại dương đi đến với các dân tộc xa lạ trên lục địa châu Á mênh mông, không có những người xâm mình mạo hiểm như các nhà thừa sai Paris đến rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam trong thời kỳ cấm cách và bắt bớ… thì làm gì có hạt giống đức tin triển nở dồi dào trên các vùng đất Á Châu cũng như ở Việt Nam!
Và hôm nay, Giáo Hội Việt Nam đang khựng lại trên con đường truyền giáo, số lượng những người theo Chúa không thể tăng lên trong suốt nhiều thập kỷ qua, cũng chỉ vì thiếu những con người dạn dày sương gió bất chấp nguy khó để loan báo Tin Mừng.
* * *
Lạy Chúa Giêsu, Giáo Hội Việt Nam cũng như Hội Thánh Chúa trên khắp hoàn cầu đang cần những con người nhiệt thành, mạo hiểm, cần đến những người dám lìa bỏ bờ bến an toàn để dấn bước ra khơi.
Xin Chúa tiếp tục rảo bước trên quê hương chúng con và kêu gọi thêm nhiều tâm hồn thiện chí để bổ sung vào đội ngũ các môn đệ tiên phong của Chúa ngày xưa.
Xin cho ngọn lửa của Chúa Thánh Linh trong ngày lễ Ngũ Tuần tiếp tục cháy lên trong lòng các môn đệ Chúa để cho Tin Vui, Tin cứu độ của Chúa được loan báo cho hết mọi người.
7. Chúa Kitô là ánh sáng – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Có lúc nào đó trong cuộc sống chúng ta tự hỏi lòng mình: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này để làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của đời người, nó quyết định phận số của một con người. Đau khổ hay bất hạnh. Lạc quan hay bi quan. Sống có trách nhiệm hay lười biếng, buông thả? Sống có ích hay trở thành gánh nặng cho xã hội đều tùy thuộc vào chọn lựa căn bản này của từng người chúng ta.
Nhìn vào xã hội hôm nay chúng ta thấy, có người chủ trương cho rằng con người là loài vật nên chẳng cần luân thường đạo lý, chẳng cần tự chủ bản thân, sống buông thả theo đam mê nhục dục như muôn loài sống theo bản năng của mình. Có người chủ trương cho rằng sống là để hưởng thụ nên luôn tranh giành lẫn nhau, luôn lấn áp với nhau theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Họ chà đạp lên nhau chỉ vì danh lợi thú trần gian. Có người chủ trương cho rằng chết là hết nên chẳng cần ăn ngay ở lành, chẳng cần tích đức đời sau nên sinh ra đạo tặc, dâm ô và biết bao tệ nạn đau buồn khác. Hằng ngày trên truyền hình, truyền thanh vẫn luôn cập nhật những thông tin đáng buồn như cướp dật, hoang dâm, xì ke, ma tuý, tham nhũng, giết người… Tại sao vậy? Tại sao xã hội có luật pháp mà vẫn còn đó những tội phạm? Tại sao bóng tối của sự dữ vẫn còn đầy rẫy trong xã hội văn minh hôm nay? Tại sao lương tâm không bằng lương thực? Tại sao nhân phẩm không bằng nhu yếu phẩm? Tại sao tình người không bằng đồng tiền? Tại sao vì tiền, vì quyền, vì tình mà nhiều người đã đánh mất nhân tính của mình? Có lẽ chỉ vì đã nhìn nhận sai về căn tính con người, về ý nghĩa cuộc đời nên dẫn đến biết bao hệ luỵ khổ đau cho con người.
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: loài người thuở xa xưa khi chưa biết soi gương trang điểm nên dường như cũng chẳng hề biết khuôn mặt mình tròn méo thế nào. Vì thế mới có chuyện đau lòng xảy ra giữa đôi vợ chồng trẻ miền quê hẻo lánh. Một lần anh chồng có việc phải lên kinh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cái đầu. Nhưng khốn nỗi anh chàng nhà quê chưa một lần nhìn thấy cái trâm cài đầu nó như thế nào? Cô vợ nhìn lên bầu trời đêm thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói: “Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên, anh cứ nhìn lên ánh trăng thì sẽ nhớ”. Người chồng đã ra đi. Kinh đô quả thật khác lạ so với anh. Cái gì cũng mới. Cái gì cũng hay. Anh chồng đã say sưa, mải miết tham quan những cảnh lạ ở kinh thành cả mười ngày sau mới về. Lúc này anh mới chợt nhớ lời vợ dặn, anh liền nhìn lên bầu trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm. Anh vào cửa hàng tạp hoá và anh mua một cái gương soi mặt vì nó hình tròn giống như ánh trăng. Lòng vui rộn ràng anh quay trở về với vợ hiền. Anh vui mừng trao món quà cho cô vợ bé nhỏ của mình. Cô vợ mở quà ra xem. Ngạc nhiên tại sao lại là hình ảnh của một cô gái ở trong món quà. Bởi lẽ, cả đời cô chưa hề biết gương là gì, nên khi thấy bóng dáng một người con gái trong gương cô đã tức giận và quát tháo nên rằng: “Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh đem về cho tôi một đứa con gái nào đây?”. Anh chồng lúc này mới nhìn vào gương và thấy khuôn mặt một người đàn ông trông giống như bố mình ngày xưa, nên anh cãi rằng: “Không phải, đây là bố tôi”. Và anh dành lại cái gương, miệng không ngớt kêu lên: “Ơ bố ơi! Quả thực là bố hiện về với con”. Cô vợ tức quá giựt lại và bảo: “Bố ông bao giờ, đây là con nào rõ ràng mà ông còn chối cãi được sao?”. Anh chồng xem ra không cãi nổi vợ, bèn buồn bã bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi nàng dâu, và người con dâu đã đưa cho mẹ chồng xem bằng chứng về sự dan díu của chồng mình. Mẹ chồng xem qua rồi đi đến kết luận: “Thôi đừng ghen tương làm chi cho khổ, tao thấy con này nó cũng già quá rồi!”
Vâng, xem ra cái nhìn tiên tri của ngôn sứ Isaia vẫn đúng cho thời đại hôm nay, vì “đoàn dân đang ngồi trong bóng tối” cũng chính là hình ảnh của nhân loại hôm nay. Một thế giới đầy những bong tối của tội lỗi, của sa đoạ, của ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù quáng chạy theo những đam mê lầm lạc và dìm mình trong bong tối của danh lợi thú trần gian. Họ đã lạc mất hướng đi đời người. Họ chẳng cần biết mình là ai? Họ chỉ cần tiền. Họ không cần đạo đức hay phẩm giá con người. Điều họ cần là làm sao có tiền để hưởng thụ. Vì có “tiền mua tiên cũng được”. Vì mải miết chạy theo đồng tiền họ đã đánh mất hướng đi đời người. Cuộc sống không có định hướng, không có mục đích là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn: cướp giật, tham nhũng, xì ke ma tuý và mại dâm cùa thời đại hôm nay.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy sám hối”. Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ghen tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sang của yêu thương và hiệp nhất. Sám hối để bước ra khỏi vũng lầy của đam mê nhục nhục, của tha hoá đạo đức để sống cao thượng theo đúng phẩm giá con người là “nhân linh hơn vạn vật”. Sám hối để nhìn nhận những sai trái của mình đã gây nên những bất công, những khổ đau cho anh em và quyết tâm thay đổi đời sống theo đúng đòi hỏi của Tin mừng mà Chúa Kitô đã loan báo. Vì Chúa Kitô chính là ánh sáng đã chiếu giãi trên thế gian. Từ nay Tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, ai bước theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.
Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của Tin mừng sẽ phơi bầy bộ mặt thật của mình nên họ luôn tìm cách che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tỗi lỗi vẫn tràn lan. Con người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính những điều gian ác, bất công của mình gây nên.
Xin Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự sống giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ của danh lợi thú trần gian để chúng ta sống trong tự do của con cái Chúa. Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn dắt chúng ta đi theo chân lý vẹn toàn ngõ hầu chúng ta luôn sống đúng với phẩm giá cao quý của con người là hình ảnh của Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở thành ánh sáng để dẫn dắt anh chị em chúng ta bước đi trong ánh sáng lề luật và phúc âm của Chúa. Amen.
8. Nước Trời đã đến gần – Jos. Hồng Ân
Loan báo Tin Mừng Nước Trời là sứ điệp quan trọng, nên Chúa Giêsu đã quên ăn, quên ngủ, không quản chi mệt nhọc, vất vả đi khắp các làng mạc, thành thị loan báo Tin Mừng, mời gọi mọi người ăn năn sám hối, đón nhận Nước Trời để được ơn cứu độ. Chúa còn chọn gọi và sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân nước.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17). Chúa Giêsu muốn cho thấy tầm quan trọng của Nước Trời, điều kiện căn bản để đón nhận Nước Trời là phải sám hối, không sám hối thì không thể vào được Nước trời, Nước Trời chỉ dành cho những ai biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, sửa đổi đời sống để nên hoàn thiện và cầu xin Chúa tha thứ. Điệp khúc này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong các lời giáo huấn của Ngài. Có trở về, có thay đổi, có sám hối con người mới vào được Nước Thiên Chúa. Sám hối là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin Kitô giáo. Sám hối còn là chìa khoá để vào Nước Trời.
Chúa Giêsu dạy chúng ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết, còn mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau (x. Lc 12, 31). Ngài còn dạy: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12, 33). Nước Thiên Chúa là cùng đích đời người nên có giá trị tuyệt đối, phải đặt lên trên hết mọi sự, phải sẵn sàng hy sinh tất cả và bằng mọi giá để vào được Nước Trời (x. Mt 13, 44-46). Thánh Phaolô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Vì vậy, để vào được Nước Trời, chúng ta cần phải sám hối, từ bỏ những gì là xấu xa tội lỗi, từ bỏ những gì ngăn cản ta tìm kiếm Nước Trời. Từ bỏ những gì nước trần gian, nước của sa tan lôi kéo chúng ta như: tiền của vật chất, danh vọng địa vị, thú vui xác thịt. Chúng ta phải luôn chiến đấu với ba thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Sau khi kêu gọi dân chúng sám hối để đón nhận Nước Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ, để các ông đi theo Người, cộng tác với Người rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Ngài bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 18-19). Các ông không so đo tính toán, không ngần ngại lên đường đi theo Chúa: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4, 20). Chúa gọi các ông đi theo Người, không phải để thành lập một tập đoàn kinh tế hay chính trị. Nhưng là để các ông học hỏi nơi Người cách sống và làm việc, tất cả vì công cuộc loan báo Tin Mừng Thiên Chúa, tất cả vì hạnh phúc, vì phần dỗi của con người.
Chúa đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Ngài không chỉ rao giảng trên môi miệng, mà còn bằng việc làm cụ thể, “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 4, 23). Chúa rao giảng và chữa lành bệnh hoạn, tật nguyền phần hồn, phần xác, để giúp con người nhận ra giá trị đích thực của Nước Trời là được bình an hạnh phúc, không còn đau khổ, bệnh tật, không phải bom chen, cạnh tranh… Vì đó là sứ điệp quan trọng, nên trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Ngày nay, tiếng Chúa nói “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” vẫn còn vang vọng bên tai của chúng ta. Chúa vẫn kêu gọi, vẫn chữa lành để ta nhận ra chân giá trị của Nước Trời. Vậy mà ta vẫn bưng tai bịt mắt không nghe cũng chẳng nhìn, cho là Nước Trời còn xa tít trên chín tầng mây, nên không quan tâm, không để ý, không xem xét, vẫn mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, không đáp lại lời mời gọi của Chúa, không chịu sám hối, vẫn tiếp tục đi trên con đường tội lỗi, vẫn tìm kiếm khoái lạc, tìm hưởng thụ, sống bất công, điêu ngoa, gian dối, lừa lọc, giận hờn ghen ghét, mưu mô sảo quyệt, đội trên đạp dưới làm hại anh em. Nhiều khi đi làm tông đồ cũng dựng bè kéo cánh, cũng tranh giành sự ảnh hưởng, tranh giành chỗ đứng, tranh giành nơi làm việc, dèm pha, nói xấu đủ điều…
Là Kitô hữu, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa, biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, từ bỏ tất cả những gì là tội lỗi xấu xa, quay trở về với Chúa, cầu xin Người thứ tha, để ta đón nhận Tin Mừng Nước Thiên Chúa và hưởng ơn cứu độ Người ban. Chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa ra đi loan báo Tin Mừng, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để đón nhận Nước Trời.
9. Ơn gọi đâu dành để riêng ai!
(Suy niệm của Lm Giuse Lê Quan Trung)
Có lẽ do khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai về Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã tuyền chọn bốn môn đệ đầu tiên: Simon Phêrô-Anrê-Giacôbê-Gioan, mà sau này cả bốn vị đều trở thành Đức Giám Mục với vị đứng đầu là Đức Giáo Hoàng tiên khởi Phêrô, mà từ đó rất nhiều người, hễ nghe nói tới ơn gọi, là họ nghĩ ngay đến ơn thiên triệu, ơn gọi giáo sĩ, tu sĩ, ơn gọi dâng hiến, ơn gọi “độc thân vì nước trời”!
Cũng từ đó, nhiều thảm cảnh đã xảy ra trong các gia đình, họ tộc: không chấp nhận những đứa con đã đi dự tu, đã vào chủng viện, đã vô nhà dòng, mà còn dám cả gan bỏ Chúa, dám trở lại thế gian để lấy chồng, lấy vợ!
Họ coi đó là một nỗi ô nhục, một vết chàm tím bầm mà muôn đời không cách nào tẩy xóa được. Giận cho họ mà cũng thương cho họ biết bao!
Ý Chúa nào phải chỉ tuyển một ơn gọi đóng khung! Một ơn gọi tách biệt! Một ơn gọi riêng lẻ! Chúa muốn tất cả mọi người đều trở thành người thợ trong vườn nho của Chúa tùy theo khả năng, tùy theo tấm lòng, tùy theo sự lựa chọn của tự mỗi người mà! Không hiểu đúng ơn gọi sẽ không chọn đúng ơn gọi. Không chọn đúng, không thể nào sống đúng! Và nỗi bất hạnh chắc chắn sẽ xảy ra,chỉ là sớm hay muộn thôi!
1) Hạnh phúc đâu chỉ trong đời dâng hiến:
Lựa chọn nào cũng có mất mát. Tuyển lọc nào cũng có rụng rơi. Hạnh phúc nào phải cũng trả giá. Mộng mơ một hạnh phúc vẹn tuyền, toàn hảo, không đau đớn, không đánh đổi, không hy sinh, là một ảo vọng! Ngay bước khởi đầu khi được Chúa gọi mời,với bản chất tự nhiên và nhân bản,ai dám bảo bốn môn đệ tiên khởi đều thanh thản, vui vẻ, phấn khởi lên đường liền? Cũng phải đớn đau từ giã mẹ cha. Cũng phải đắng lòng rời con xa vợ. Cũng phải bịn rịn chia tay bạn hữu. Tình người chia cắt, phải dễ đâu một sớm một chiều! Trình thuật của thánh Matthêu ngắn gọn (Mt 4, 18- 4,22), nhưng sự lựa chọn của các ngài, quyết tâm theo Chúa của các ngài, bỏ lại sau lưng tất cả thân bằng quyến thuộc của các ngài, thật không đơn giản chút nào nếu ta đọc hết cả bốn tin mừng mà bốn thánh sử Matthêu, Maccô, Luca và Gioan đã ghi lại. Không ít lần họ đã bị thử thách mà thử thách đến tận cùng: bằng chính cái chết để thể hiện, để bảo vệ, để giữ trọn và để phát triển niềm tin của mình.
Chúa gọi nhiều, chọn ít! Ai cũng biết điều đó. Nhưng “ít” đây không có nghĩa là loại trừ nhóm không được chọn! Với Chúa, mỗi người Chúa giao những nén bạc riêng, trong những hoàn cảnh riêng, môi trường riêng, khả năng riêng. Hạnh phúc nhất chính là khi ta tìm gặp niềm vui nơi chính ơn gọi, vị trí, chổ đứng của mình trong ý định của Thiên Chúa với sự cộng tác tích cực của mình. Khi mình yêu thích công việc ấy và biết chắc, dẫu lựa chọn đó sẽ có thể một lúc nào đó gây cho mình nhiều đớn đau, nhiều buồn tủi, nhiều cam go, nhưng rồi mình sẽ đủ sức vượt qua vì tình yêu và niềm vui đã đủ lớn để trợ lực cho sự lựa chọn của mình.
2) Hạnh phúc đâu chỉ nếp sống hôn nhân:
Chỉ những ai đã từng nếm trải cuộc sống hôn nhân mới cảm nghiệm rõ một điều: hôn nhân không chỉ toàn là đóa hoa hồng hạnh phúc! Mà trong đó cũng có đủ vị cay đắng ngọt bùi! Không ít người đã quyết tâm hiến dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân trong nếp sống tu trì, nhưng rồi nữa đường gãy gánh, vì không lường trước hết cái giá phải trả của nếp sống ấy. Bởi một chút nản chí sờn lòng vì nhiệt tình phục vụ của mình không được đón nhận hay đáp ứng một cách tích cực, không cậy nương vào Chúa, không đủ tình với Chúa… Bến bờ tựa nương của họ sẽ là những luật bù trừ: đặt tình yêu của mình vào một đối tượng khác! Để rồi khi cơn khủng hoảng dịu lại,qua đi, hiểu được chuyện thì đã muộn màng! Bởi họ không lường trước được: hôn nhân đâu chỉ là những đóa hồng tươi! Gặp lúc nắng, hồng tươi cũng héo!
Ngay thuở ban đầu, Chúa đã liên kết con người bằng tình yêu giới tính, bằng kết hợp âm dương, bằng tình yêu nam nữ. Chính ơn gọi đó đã dẫn dần đến ơn gọi hiến dâng. Ai sống đúng ơn gọi của mình, người đó sẽ tìm thấy hạnh phúc đích thực! Dù ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, cái nào cũng có niềm vui và nỗi buồn, đắng cay và ngọt dịu, khó khăn và dễ dàng của nó. Miễn là ta thực sự yêu chính đời sống của ơn gọi đó, thì mầm hạnh phúc không ở đâu xa.
3) Hạnh phúc còn ở nhiệm vụ Chúa trao:
Ơn gọi hiến dâng, ơn gọi gia đình, là những ơn gọi đặc biệt mà Chúa trao ban và ta tự đón nhận để tìm hạnh phúc cho đời mình. Đã chọn, đừng luyến tiếc! Đã chọn, đừng “bắt cá hai tay”! Đã chọn, đừng ngậm ngùi tủi phận, đừng ân hận dày vò, đừng đắn đo ngó lại! Hạnh phúc nhất là hiểu đúng lời Chúa dạy! Sống đúng lời Chúa trao! Làm đúng lời Chúa dặn! Không dễ, cũng không khó, nếu ta biết: hạnh phúc thật của đời ta không có điểm dừng, điểm tận cùng, điểm kết thúc ở đời này, mà là ở cuộc đời mai hậu.
Làm tròn bổn phận và tìm được niềm vui trong bổn phận, đó đã là hạnh phúc!
Chu toàn nhiệm vụ được giao,là ta đã đáp ứng thật tâm lời mời gọi của Chúa: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Bài ca sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời của một ngư phủ chuyên nghiệp, của một thợ vườn nho lành nghề chính là đời sống tỏa rạng niềm vui và hạnh phúc trong chính đời sống chứng nhân nơi ơn gọi mà mình đang sống, làm tròn những bổn phận: chủ chăn nơi cộng đoàn đức tin, cha mẹ con cái trong gia đình, ban mục vụ, ban hành giáo, ca đoàn, lễ sinh, giáo dân trong giáo xứ và thấy mình luôn bình an, luôn hạnh phúc dù gặp không ít những trắc trở khi sống khi thực hiện những nhiệm vụ đó, là mình đã không bị lệch hướng trên con đường đáp lại lời Người!
10. Mọi người là con Chúa cả!
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Những chuyến đi của con người …
Thuở ban đầu, Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ, Ngài đặt tên cho họ là Adam và Eva. Đó là cộng đồng Dân Chúa đầu tiên, là xã hội đầu tiên của nhân loại. Con người được sống trong một môi trường bình an và hạnh phúc.
Nhưng con người đã bỏ Chúa mà đi.
“Người đàn bà thấy trái cây đó: ăn thì phải ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.
Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa, là Thiên Chúa. (St.36-8).
Đó là chuyến đi đầu tiên của con người rời xa Chúa. Chuyến đi nội tâm đầy bất an và bất hạnh. Chúa vẫn ở bên con người, nhưng lòng con người đã khác, khoảng cách với Thiên Chúa đã xa. Và những ngày đầm ấm hạnh phúc bên Thiên Chúa đã lùi vào dĩ vãng.
“Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đên để cày cấy đất đai, từ đó con người được lấy ra. Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đên, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh. (St.3,23-24).
Và dòng đời cứ thế trôi đi …
Con người lại tiếp tục vương những lỗi lầm, tiếp tục có những chuyến đi lìa xa Tình Chúa. Mầm móng kiêu căng và tham vọng tiếp tục sinh sôi nẩy nở trong thế giới nội tâm con người, Máu và nước mắt, khổ đau và tuyệt vọng tiếp tục tràn lan trong kiếp sống nhân sinh!
Đức Chúa phán với Ca-in: “Aben em ngươi đâu rồi?” Ca-in thưa: “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?” Đức Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em người, do tay ngươi đổ ra” (St.4,9-11).
Con người càng lúc càng lún sâu vào những suy nghĩ và hành động đen tối, tiến dần đến thái độ chối từ và chống lại Thiên Chúa. Và cũng vì thế, con người càng chia rẻ, phân tán. Không còn một nhân loại hiệp nhất, đệ huynh, quây quần bên Thiên Chúa.
“Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh Ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất”.
Đức Chúa xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây. Đức Chúa phán “Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa”. Thế là Đức Chúa phân tán họ từ chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không xây thành phố nữa. Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Đức Chúa làm cho xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất”. (St.11,3-9).
Và, con người mất dần hình ảnh Thiên Chúa trong lòng họ. Dần dần họ là trở thành Dân Ngoại, không còn niềm tin vào Thiên Chúa.
Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng hình ảnh Thiên Chúa đã bị hiểu sai lầm, lệch lạc, mờ ảo, nhạt nhòa.
Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa với tấm lòng thành tâm, thiện chí, nhưng không biết con đường, không nhận ra hướng đi.
Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng niềm tin hòa lẫn cùng lợi lộc thế tục. Trắng đen, hư thực pha trộn, không biết đâu là chánh, đâu là tà!
Những chuyến đi của Thiên Chúa…
Ngay từ buổi ban đầu, sau khi con người sa ngã, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người, dù rằng con người đã phản bội Thiên Chúa với quyền tự do chọn lựa của mình.
“Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St.3,15).
Để thực hiện chương trình cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn cho mình một “Dân riêng” để chuẩn bị một chuyến đi viếng thăm nhân loại. “Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta”.
Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể. Hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp. (Tv.33,12).
Và, Ơn Cứu Độ đã đến với mọi nước, mọi dân, khởi đi từ Do Thái, dân riêng của Chúa.
Vì Ơn Cứu Độ là của mọi dân tộc, là của con người, Chúa Giêsu không thể chấp nhận sự tự hào đến mức kiêu căng tự phụ của Do Thái, đặc biệt là những người Pha-ri-sêu về việc họ là dân riêng của Chúa. Thái độ ấy dẫn đến hình ảnh một Thiên Chúa chỉ biết đến họ vì chỉ có họ mới xứng đáng và loại trừ tất cả mọi dân tộc khác, những dân tộc mà người Do Thái liệt vào dân ngoại và không được Thiên Chúa đoái thương.
“Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Chúa Giêsu phán:“này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng đã đến giờ – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng người như thế. (Ga 4,19-23).
Chúa Giêsu đã đến với mọi người. Thiên-Chúa-làm-người cứu độ tất cả mọi chúng sinh tin tưởng vào Ngài. Ngài là ánh sáng muôn dân. Ngài đem đến cho nhân loại hình ảnh Thiên Chúa là Cha và rất mực yêu thương con người.
Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. (Mt.4,15-16).
Và, Chương Trình Cứu Độ được tiếp tục mãi cho đến ngày Chúa đến. Chúa Giêsu đã tuyển chọn 12 môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Tình Thương của Thiên Chúa đối với con người. Sứ mạng ấy cũng chính là sứ mạng đem mọi người về với Chúa, đem mọi người trở về địa vị cao cả nhất và nhân bản nhất, đó là được làm con Thiên Chúa.
Có một chuyến đi quyết định, đó là chuyến đi của “Thiên Chúa viếng thăm dân người”. Đó là chuyến đi khởi đầu cho những chuyến đi trên mọi miền đất nước Do Thái.
“Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. (Mt. 9,35-38).
Và, bước theo Thầy Chí Thánh, các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, nhân danh Ngài, các ông đã thực hiện những chuyến đi đến khắp cùng bờ cõi trái đất để làm chứng nhân cho Giêsu, Đấng quy tụ nhân loại về một mối.
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc.16,15).
Tất cả, là vì mục đích: “muôn dân được thuộc về Chúa”, con người được trở về thuở ban đầu: “được làm con cái Chúa”.
Cuộc hành trình niềm tin chỉ cần sám hối và tin vào Chúa Giêsu, Đấng dẫn dắt chúng ta về với Chúa Cha, bến bờ hạnh phúc trong Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa.
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 18-20).
Cuộc trở về của con người.
Vườn Địa Đàng ngày nào, sau bao nhiêu năm “lưu lạc”, con người được quay trở về, được sống trong Tình Cha – Miền Đất Hứa – sau một đời lâm lụy ở trần gian.
Không còn là Dân Ngoại, Dân Riêng, tất cả là một trong Tình Yêu Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Ki-tô, con người được quay quần trong thế giới yêu thương huynh đệ. Không có con đường nào khác ngoài con đường Tình Yêu mà Thiên Chúa đã vạch ra cho loài người.
Tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng một thần khí để trở nên một thân thể (1Cr.17,21).
Đó là ước mơ của cả nhân loại sống hòa bình, hiệp nhất trong một Chân Lý Tình Yêu. Đó là Vườn Địa Đàng tìm thấy, hạnh phúc vô biên mà con người đã đánh mất ngày nào.
Chỉ một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người. (Ep.4,5-6).
Lạy Chúa,
Xin cho niềm tin vào Giêsu được lan tràn khắp địa cầu,
Xin cho mọi người chúng con
can đảm loan truyền niềm tin vào Thiên Chúa,
Xin hiệp nhất chúng con nên một,
trong tình yêu của Ngài. Amen
Nguồn "giaophanvinh.net"