Cuộc đời chúng ta có vui có buồn. Có những lúc thành công và có những khi thất bại. Có đau khổ và hạnh phúc. Điều đó nói lên sự bấp bênh của giòng đời. Con ngừơi luôn mang yếu tố bất định, chúng ta chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Vì thế, kẻ khôn ngoan là biết phó thác mọi sự cho Chúa là Cha. Chính người sẽ lo liệu những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Không một người Cha nào lại bỏ rơi con cái thì Thiên Chúa cũng định liệu và an bài mọi sự cho chúng ta, miễn là chúng ta hãy sống hết mình trong tình con thảo với Cha và hết mình sống yêu thương và phục vụ anh em đồng loại. Khi chúng ta sống phó thác cho Chúa là lúc chúng ta tìm được an bình trong thánh ý Thiên Chúa…
Chúa Nhật XVII Thường niên - Năm C
Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: St. 18, 20-32; Cl. 2, 12-14; Lc. 11, 1-13
***************
Tin Mừng Lc 11,1-13
Một hôm, Đức Giê-su cầu nguyện ở một nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông”. Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: “Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả”; mà người kia từ trong nhà lại đáp: “Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được”. Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh cần, vì thể diện. Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
1. Cầu nguyện
Giữa đêm khuya, một căn nhà ở nơi hẻo lánh bỗng bốc cháy. Trong cơn hoảng hốt, vợ chồng con cái đều thoát ra ngoài và bất lực đứng nhìn ngọn lửa. Rồi mọi người sực nhớ đứa con trai út mới lên năm vẫn còn bị kẹt trên gác. Phải làm gì đây? Không ai có thể đi vào được. Giữa lúc mọi người đang bấn loạn thì từ cánh cửa sổ trên gác, cậu bé thò đầu ra và kêu la thất thánh. Từ phía dưới, người cha nói với cậu: Con hãy nhảy xuống đi. Nhưng làm sao cậu bé dám làm theo lời cha, bởi vì nhìn xuống, cậu chỉ thấy khói và lửa. Cậu bé thốt lên trong tuyệt vọng: Làm sao con dám nhảy xuống vì không thấy ba. Thế nhưng người cha đã trấn an: Con không thấy ba nhưng ba thấy con. Con cứ nhảy xuống đi. Thế là với tất cả tin tưởng, cậu bé nhảy từ trên gác xuống và nằm gọn trong cánh tay của người cha.
Là con cái của Thiên Chúa, cho dầu chúng ta có rơi vào hoàn cảnh nào chăng nữa, chúng ta vẫn luôn rơi vào vòng tay của Thiên Chúa, đó là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu đã đem đến trong thế gian.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước từ và phản bội tình yêu của Ngài, Ngài vẫn một mực yêu thương. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua cuộc sống của Ngài. Cách cư xử và cái chết của Ngài đã cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.
Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với Chúa Cha. Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa Cha. Để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền lại một công thức, mà là cả cuộc sống xin vâng của Ngài.
Do đó, cầu nguyện không có nghĩa là đọc lại một câu kinh, mà chính đi vào tâm tình và cuộc sống của Chúa Giêsu. Một người tín hữu luôn chu toàn thánh ý Thiên Chúa và luôn sống với hai chữ xin vâng hằng sẽ không ngừng kêu lên: Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm những điều vĩ đại, thế nhưng Chúa lại ban cho tôi những bệnh tật để tôi làm những việc tốt hơn. Tôi đã xin giàu sang để được hạnh phúc, thế nhưng Chúa đã ban cho tôi sự nghèo khó để tôi được khôn ngoan hơn. Tôi đã không nhận được điều tôi kêu cầu, nhưng tôi nhận được niềm hy vọng. Những lời cầu xin mà tôi chưa từng thốt lên, tất cả đều được nhận lời. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
2. Lời kinh tuyệt vời – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhà thần bí Hồi Giáo tên là Farid, đến kinh đô Delhi để xin hoàng đế Akbar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akbar đang đắm mình cầu nguyện.
Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi: “Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?”
Nhà vua đáp: “Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.
Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói: “Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một kẻ ăn xin, không khác gì những hạng người khác!”.
Thật vậy, cầu nguyện không chỉ là cầu xin, cũng không phải là bảng liệt kê ước muốn mà cầu nguyện chính là tôn thờ, thống hối, cảm tạ và xin ơn. Trong kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay bao gồm bốn tâm tình đó.
Chúng ta thờ phượng, ca ngợi, tôn vinh Chúa trong câu đầu tiên: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến” (Lc 11,2).
Sau đó chúng ta bày tỏ tâm tình thống hối bằng lời xin lỗi: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).
Rồi chúng ta cảm tạ Chúa ngay trong tâm tình thờ phượng, vì khi ca ngợi tôn vinh Chúa thì đồng thời chúng ta cũng mặc nhiên cảm tạ những hồng ân Người ban.
Cuối cùng, tâm tình cầu xin được biểu lộ trong câu: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (Lc 11,3), và “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,4).
Như thế, Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì đã đặt sự cao trọng, vinh danh, và thánh ý Chúa trên hết, sau đó mới xin cho các nhu cầu của chúng ta, nên rất được Chúa Cha ưa thích.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, còn chúng ta là con cái của Người; chúng ta xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; chúng ta xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai, nên chắc chắn sẽ được Chúa Cha đón nhận.
Sau khi đã dạy chúng ta lời kinh tuyệt vời đó, Người còn khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện.
***
Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
***
Phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta”.
Lạy Chúa, xin nhắc chúng con siêng năng dùng Kinh Lạy Cha mà cầu nguyện với Cha trên trời. Nhất là xin Chúa mở rộng tâm hồn hẹp hòi ích kỷ của chúng con, để biết cầu nguyện cho các nhà truyền giáo, những người nghèo khổ, những kẻ tội lỗi và những người thân yêu của chúng con. Amen.
3. Lạy Cha chúng con – ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ xin Người dạy cách cầu nguyện. Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha mạc khải cho ta hai điều quan trọng.
1. Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “Lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi “Ba ơi”, tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy khắp thân thể. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng”. Quả thực, mối liên hệ Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ sinh con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói tóm lại, từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết được.
Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.
2. Mọi người là anh em
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con… Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.
Một lần dâng lễ chung với những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương thực dư thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Và với câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” chúng tôi vẫn cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc, chúng tôi vẫn nhớ đến những anh em bên Phi châu, bên Àu châu đang phải đói khát khổ sở.
Câu trả lời thật chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới, có trách nhiệm về nhau. Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phục Abraham đã nêu gương liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.
Nếu trong gia đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luôn được thương yêu cưng chiều, thì trong kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguyện cho những anh em bé nhỏ trước hết.
Nếu lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và là tâm tình liên đới yêu thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên Chúa sẽ hài lòng.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin thương xót chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thực sự cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người con hiếu thảo không?
2- Thiên Chúa là Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có khi nào Bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
3- Bạn cầu nguyện cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia sẻ với họ không?
4. Cầu nguyện
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ về sự cầu nguyện. Vậy trước hết cầu nguyện là gì?
Như chúng ta đã biết cầu nguyện là dừng lại trong giây lát mọi băn khoăn lo lắng, để thưa chuyện với Chúa, để nâng tâm hồn lên hầu thờ lạy và cảm tạ Ngài, đồng thời kêu xin những ơn lành hồn xác.
Từ câu định nghĩa này chúng ta thấy cầu nguyện không phải chỉ là cầu xin, mà trước hết phải là chu toàn những bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Thế nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện?
Trước hết, bởi vì chúng ta chỉ là những tạo vật của Thiên Chúa. Không có Ngài chúng ta không thể tồn tại. Hơn thế nữa, mục đích cuối cùng chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống hiện tại là tìm về quê hương Nước Trời. Muốn đạt tới mục đích cuối cùng ấy, thì ngay từ bây giờ chúng ta phải phụng sự và tôn vinh Ngài.
Đưa mắt nhìn vào vũ trụ, chúng ta nhận thấy từ một giọt sương mai cho đến các vì tinh tú, tất cả đều nói lên quyền năng Thiên Chúa khi tôn trọng những luật lệ mà Thiên Chúa đã an bài sắp xếp. Bởi đó người ta thường nói: Thiên nhiên là một cuốn sách mà mỗi trang của nó đều cho chúng ta được biết về Thiên Chúa. Và như vậy con người chúng ta, một tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa, lại càng phải ca tụng Ngài hơn nữa. Thế nhưng với trí khôn và ý muốn Thiên Chúa đã trao ban, tại sao chúng ta lại không nhận biết Ngài, lại không ca tụng Ngài?
Tiếp đến sở dĩ chúng ta phải cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đây là điều mà chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Ngài nói: Khi cầu nguyện, các con hãy thưa lên: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Thiên Chúa là một người Cha nhân từ, hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Nhờ Ngài, chúng ta mới có được những phương tiện vật chất; nhờ Ngài, chúng ta mới có được những khả năng phần hồn; nhờ Ngài, chúng ta mới có được ơn cứu độ… Vậy tại sao chúng ta lại không biết ơn và cảm tạ Ngài? Thiên Chúa lạ vị ân nhân vĩ đại. Ngài chờ đón nơi chúng ta một câu nói tuyệt vời: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Như vậy khi cầu nguyện, chúng ta bày tỏ niềm biết ơn cũng như tình yêu đậm đà của chúng ta đối với Ngài.
Người ta kể lại trong cuộc chiến tranh tại Algérie, có một viên sĩ quan người Pháp bị bắt làm tù bình. Suốt thời gian bị giam giữ, viên sĩ quan ấy luôn bị một tên lính Ả Rập rủa xả là đồ chó. Bực tức trước lời rủa xả ấy, viên sĩ quan đã lên tiếng:
- Tại sao ngươi lại chửi ta là đồ chó. Ta là một tù binh, điều đó đúng lắm, nhưng ta cũng là người như ngươi.
Tên lính Ả Rập nhìn viên sĩ quan một cách khinh bỉ và nói:
- Ngươi mà cũng đòi là người ư? Đã sáu tháng rồi, ta không hề thấy ngươi cầu nguyện, thế mà ngươi cũng dám mở miệng tự xưng là người hay sao? Là người mà không cầu nguyện cùng Thiên Chúa, thì cũng chỉ là đồ chó mà thôi.
Câu trả lời thật cứng cỏi nhưng cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ. Bởi vì người là một con vật có trí khôn. Với trí khôn chúng ta nhận biết có Thiên Chúa. Và một khi đã nhận biết có Thiên Chúa thì tại sao chúng ta lại không ca tụng Ngài.
Để kết luận tôi xin mượn lời sau đây của thánh nữ Jeanne d’Arc: Thiên Chúa phải được phục vụ trước nhất, có nghĩa là bổn phận cầu nguyện phải là bổn phận hàng đầu trong cuộc sống chúng ta.
5. Ban Thánh Thần
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Có nhiều định nghĩa về con người.
Con người là con vật biết sử dụng các dụng cụ. Con người là con vật biết suy nghĩ đắn đo. Nhưng như thế vẫn chưa đủ.
Phải định nghĩa con người là con vật biết cầu nguyện, nghĩa là có khả năng lắng nghe và đáp lời Thiên Chúa. Con người là sinh vật biết chuyện trò với Tạo Hoá.
Cầu nguyện không phải là nói với một sự vật, một ý tưởng, nhưng là nói với một Đấng siêu vượt tôi, mà lại rất gần gũi thân thương và biết tôi. Đấng ấy nói với tôi và nghe được lời tôi nói.
Có nhiều tâm tình khi ta cầu nguyện: thống hối, tri ân, ca ngợi, thờ lạy, dâng hiến, nài xin.
Nài xin chẳng phải là điều hạ giá con người. Con người cảm nghiệm được thân phận mong manh, nên khiêm hạ đi tìm sự nâng đỡ.
Xin cho chúng con bánh cần dùng mỗi ngày. Bánh vật chất, bánh tinh thần, Bánh Thánh Thể. Bánh cho chúng con sự sống.
Xin tha thứ tội chúng con, để chúng con được sống bình an sau những va vấp.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ. Cơn cám dỗ lớn nhất là chỉ sống cho mình, và khép lại trước Thiên Chúa và anh em.
Quỳ xuống cầu xin là thái độ của người biết mình, biết những gì mình có thể làm được, và biết những gì nằm ngoài tầm tay của mình.
Khi tương quan giữa Mỹ và I-rắc căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã tới Bagdad để thuyết phục phía I-rắc ký vào bản thoả thuận.
Lúc trở về, ông nói: “Tôi đặc biệt đã cầu nguyện nhiều. Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của sự cầu nguyện.”
Chẳng phải chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện khó. Để hít thở bình thường cũng cần đến ơn trên.
Cần có thái độ kiên trì khi cầu nguyện. Hãy cứ gõ cửa nhà Chúa trong đêm mịt mù. Cần tập đứng đợi, tập quấy rầy Chúa. Thế nào Ngài cũng mở cửa và cho mọi sự ta cần.
Hãy để Ngài tự do cho vào lúc và theo cách Ngài muốn, dù điều đó không hợp với ước mơ của ta.
Lắm khi ta có cảm tưởng Ngài không nhận lời. Có thể vì lời nài xin của ta đầy tính ích kỷ, hay vì Ngài muốn dành cho ta một ơn lớn hơn.
Xin Đức Giêsu dạy ta biết cách cầu xin, đưa ta ra khỏi những bận tâm hẹp hòi về chính mình, để thấy những nhu cầu lớn lao của Hội Thánh.
Ơn cao cả nhất mà chắc chắn Cha muốn ban cho ta đó là Chúa Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống.
Có khi nào ta nài xin Cha ban Thánh Thần chưa?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa là Cha tốt lành. Ngài chỉ cho ta điều tốt. Có khi nào bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
Nếu Chúa cho bạn chọn 3 điều ước, bạn sẽ chọn những điều nào?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
6. Hãy xin thì sẽ được
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Một thách đố lớn đối với đức tin của người Kitô hữu đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.
Gặp cơn cùng khốn, con người cầu cứu Ngài nhưng không nghe thấy tiếng đáp lại.
Người lành bị trù dập, kẻ vô tội bị hàm oan, nỗi đau khổ thể xác tinh thần vây bọc lấy đời người.
Con người quằn quại, rên xiết, gào thét, nổi loạn.
“Chúng tôi tố cáo Thiên Chúa vì Ngài vắng mặt.”
Ngài không được quyền vắng mặt và thinh lặng. Nếu Ngài là Thiên Chúa quyền năng, Ngài phải tiêu diệt sự dữ và kẻ dữ. Nếu Ngài là Cha yêu thương, Ngài không thể quay lưng trước nỗi khổ của con người. Có nhiều người đã lý luận như thế và kết luận: “Vì có đau khổ, nên không có Thiên Chúa.”
Có lúc người ta tưởng đau khổ là một vấn đề có thể đem ra mổ xẻ, giải quyết. Nhưng rồi người ta thấy đó là một mầu nhiệm. Chỉ ai tin mới đến gần được mầu nhiệm ấy, và đón nhận nó trong bình an.
Đức Giêsu đã không trình bày con đường diệt đau khổ, nhưng Ngài mang lấy đau khổ vào thân. Trên thập giá, Ngài nghe được sự thinh lặng của Thiên Chúa, và thấy được sự vắng mặt của Người. “Lạy Thiên Chúa của tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?”
Như ta, Ngài cũng bước đi trong bóng tối của lòng tin, dù bị thử thách, vẫn một niềm tín thác: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.”
Thiên Chúa vẫn là Đấng toàn năng và yêu thương, nhưng Ngài hành động không giống điều ta nghĩ.
Ngài không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá nhưng đưa Con của Ngài ra khỏi nấm mồ, điều đó khó hơn nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ và tin chắc sẽ được, sẽ thấy, sẽ mở cho.
Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Ngài chỉ ban cho ta những điều tốt lành, những điều có lợi thực sự cho ta, những điều làm ta trưởng thành và triển nở, những điều đưa ta gặp hạnh phúc đích thực, thứ hạnh phúc không chỉ hạn hẹp ở đời này.
Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhưng Ngài không nuông chiều con cái, Ngài dám cắt tỉa để chúng ta sai trái hơn.
Bạn hãy cứ cầu xin nhưng hãy để cho Ngài định liệu, vì Ngài biết rõ điều gì là tốt hơn cho bạn trong hoàn cảnh này, ở đây, bây giờ.
Cần cầu nguyện nhiều, bạn mới biết điều bạn phải xin, vì những điều chúng ta xin còn mang nhiều cặn bẩn.
Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp. Cần có đức tin mới nhận ra rằng Chúa đã nhận lời mình rồi, nhưng theo một kiểu khác với kiểu ta muốn.
Cần đợi đến một lúc nào đó bạn mới thấy mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn đã từng cầu xin và thấy Chúa thinh lặng trước nỗi khổ của bạn. Bạn đã sống kinh nghiệm đó như thế nào?
Có khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những gì Chúa đã không ban cho bạn theo như ý bạn xin?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
7. Kinh Lạy Cha – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Đối với thánh Luca, Kinh Lạy Cha phát xuất từ việc các môn đệ nhìn Chúa Giêsu cầu nguyện: “Khi Ngài cầu nguyện xong, một trong các môn đệ thưa Ngài: Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”.
Theo chiều hướng đó, chúng ta có thể tái khám phá Kinh Lạy Cha trong bài suy niệm này, bằng cách xem Chúa Giêsu cầu nguyện như thế nào, bằng cách kết hợp với nhiệt tình bên trong hướng về Chúa Cha của Ngài, bằng cách tiếp nhận mỗi lời nói từ chính Chúa Giêsu.
“Lạy Cha chúng con”
Chúa Giêsu, ngay từ những lời nói đầu tiên, “Lạy Cha chúng con”, Cha đã kéo con ra khỏi sự co cụm lại, Cha nhắc nhở con rằng mọi kinh nguyện mở con hướng ra hai thế giới. Trong khi tìm cách tiếp xúc với Cha, con đi vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Trong khi nói “chúng con”, con cầu nguyện cùng với các anh em và cho các anh em của con.
“Lạy Cha chúng con ở trên trời”
Lạy Cha, Cha ở khắp mọi nơi, nhưng là ở trong một thế giới khác với thế giới hữu hình của chúng con, không phải ở bên trên, cũng không phải ở bên cạnh, ở một nơi mà con không nhận thấy. Cha ở rất xa khi con suy nghĩ bình thường, và rất gần khi con lắng nghe Chúa Giêsu: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9). Lạy Cha, Cha “ở trên trời”, nhưng Cha đúng là Cha chúng con. Con sống trong sự hiện diện của Cha, và Chúa Giêsu nói với con rằng đây là một sự hiện diện tình yêu. Con ở trong Cha và Cha ở trong con. “Nếu ai yêu mến Thầy Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở cùng người ấy” (Ga 14,23). Con hiểu điều này khi con nói với Cha: Lạy Cha.
“Xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện”.
Danh Cha, chính là Cha. Con muốn tất cả mọi người đều biết Cha. Con muốn họ biết Ngài thánh thiện đến độ nào và Cha là Cha. Con muốn họ có thể phân biệt được hành động, công bằng và vinh quang của Cha. Con muốn cuộc sống của con nói lên danh Cha.
Nước Cha, chỉ có Cha mới có thể thể hiện Nước đó một cách hoàn toàn cùng với những cuộc đời của chúng con khi các cuộc đời này không nổi loạn, đãng trí cũng như gò bó. Xin hãy mở rộng các tư tưởng của chúng con cho đến thời cánh chung khi chúng con sẽ là dân chúng đông đảo của Cha. Xin hãy làm cho Nước của Cha đến qua điều mà con người trên thế giới đang sống. Điều đó là máu và nước mắt, những nỗi thất vọng, những niềm vui, những hoạt động công bằng và những chuyện tình đẹp. Xin cho máy truyền hình, nếu con biết xem cho tốt, luôn luôn đổi mới sự lo lắng của con về Nước Trời và kinh nguyện của con về Nước Trời.
Con không muốn nói với Cha “xin cho ý Cha thể hiện” vì một sự cam chịu đơn giản, con muốn đi vào trong ý muốn của Cha càng tích cực càng tốt bởi vì con biết rằng điều Cha muốn là thánh thiện, công bằng và đầy tình yêu thương.
Nhưng đôi khi tất cả đều đen tối đối với chúng con. Xin cho đừng có chén đắng!… Tuy vậy, nếu phải uống chén đắng, xin cho chúng con có thể hợp với ý của Cha nhiều nhất.
“Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Xin hãy cho chúng con điều cần thiết để sống một cách mãnh liệt ngày hôm nay. Không phải hôm qua cũng không phải ngày mai, nhưng bây giờ đây. Mỗi lần con xin Cha lương thực ngày hôm nay, hãy đặt con lại trong hiện tại, trong điều mà con phải sống. Xin tách con ra khỏi những lo lắng làm con xa Cha. Con không thể nói với Cha là Cha nếu con không tin rằng Cha muốn ban cho con điều gì đó để sống ngày hôm nay.
“Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha”
Cho đến Kinh Lạy Cha cuối cùng của con con sẽ còn xin Cha tha thứ. Con sẽ luôn luôn có những sai lầm với Cha, con biết, nhưng nhờ Chúa Giêsu con sẽ không bao giờ nghi ngờ Cha, Cha là người cha của đứa con hoang đàng. Nhưng xin cho con không quên điều kiện mà nếu không có nó Cha sẽ không thể tha thứ cho con: con phải tha thứ. Không phải tha thứ cho anh em của con nói chung, đây là điều quá dễ. Vào lúc này đây con phải tha thứ cho X… ngay tức thì. Nếu không, tại sao lại đọc Kinh Lạy Cha? Sự tha thứ của Cha không thể được ban cho một tâm lòng đóng kín với chỉ một trong những người anh em của họ.
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”
Con không xin Cha cho con được rút lui khỏi cuộc chiến đấu, nhưng để làm vinh danh Cha khi mọi sự trở nên khó khăn. Vào giờ phút tồi tệ, lạy Cha, xin giúp con. Xin giúp chúng con.
8. Biến ước mơ thành hiện thực
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp, rất quý báu nên ai ai cũng đều khao khát ước mơ. Tuy mọi người đều mơ ước, khao khát những giá trị đó nhưng rồi họ cảm thấy khả năng của mình có giới hạn, phương tiện của mình còn thiếu thốn, nên chẳng mấy ai tìm cách chiếm hữu được những giá trị cao quý ấy. Thế là những giá trị cao quý đó chỉ xuất hiện trong ước mơ của mọi người một thời gian rồi tan biến.
Trong câu chuyện cổ Ali Baba và bốn mươi tên cướp, chàng Ali Baba nghèo khổ vào rừng kiếm củi kiếm sống qua ngày, vô tình phát hiện bốn mươi tên cướp mang tài sản cướp được về cất giấu trong kho tàng bí mật. Khi một người trong bọn đứng trước một tảng đá lớn đọc câu thần chú: “Vừng ơi! mở ra”, thì lạ lùng thay, một cánh cửa bí mật mở ra dẫn lối cho lũ cướp đem của cải cướp được vào kho báu nằm chìm trong hang.
Chờ cho bọn cướp ra đi, Ali Baba tiến lại khung cửa thần bí và đọc lại câu thần chú đó. Thật nhiệm mầu, tấm cửa đá nặng nề mở ra, đưa anh vào một kho tàng chứa đầy báu vật và nhờ đó, Ali Baba chiếm hữu được nhiều báu vật trong kho tàng.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta một một bí quyết quan trọng giúp ta khám phá và chiếm hữu những kho báu lớn lao, kho báu vật chất cũng như kho báu tinh thần. Đây không phải là câu “Vừng ơi! mở ra” để đưa chúng ta vào kho báu huyền thoại, nhưng là câu: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”.
Bí quyết nầy giúp mở ra nhiều kho tàng vật chất cũng như tinh thần, tự nhiên cũng như siêu nhiên. Bí quyết được tóm lại trong ba điều rất đơn giản: “xin – tìm – gõ”.
Thật là điều khó tin! Làm sao mà chỉ cần ba hành động đơn giản là xin, tìm, gõ lại có thể giúp người ta đạt được những giá trị lớn lao và cao quý?
Chúa Giêsu cũng biết những thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài mới thuyết phục thêm: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”.
Thế ra lâu nay chúng ta không chiếm hữu được những giá trị cao quý là vì chúng ta chưa xin, chưa tìm, chưa gõ đó thôi. Còn ai liên lỉ xin, kiên quyết tìm, nhẫn nại gõ thì thế nào cũng đạt được giá trị cao đẹp mình mong muốn.
Cả ngàn ngôi thánh đường cao lớn mọc lên nhanh chóng từ vài chục năm trở lại đây trên đất nước Việt Nam chúng ta, những thánh đường mà trước đây nhiều người giáo dân nghèo chỉ dám ước mơ chứ không dám tin là sẽ có, đã trở thành hiện thực giữa những xóm đạo rất nghèo, cũng là nhờ vào bí quyết “xin-tìm-gõ” mà thành.
Con số linh mục vượt trội lên trong những năm tháng qua trên quê nhà Việt Nam, điều mà trước đây vài chục năm chỉ là điều nằm trong mơ ước, nay cũng đã thành hiện thực nhờ bí quyết “xin-tìm-gõ” đó thôi.
* * *
Cuốn “Góp nhặt cát đá” của thiền sư Muju (dịch giả Đỗ Đình Đồng, nhà xuất bản Lá Bối, xuất bản năm 1972) có ghi lại mẩu chuyện sau đây liên quan đến lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay.
Một sinh viên đến viếng Thiền sư Gasan và hỏi: “Thầy đã đọc Thánh Kinh Kitô chưa?”
Gasan bảo: “Chưa. Hãy đọc tôi nghe!”
Sinh viên mở sách ra và đọc một đoạn sách thánh (Mt 6, 28-29): “Còn về áo mặc, các ngươi lo lắng làm chi? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào: chẳng làm khó nhọc cũng không kéo chỉ; nhưng Ta bảo các ngươi, dẫu vua Salômon sang trọng đến đâu, cũng không mặc được áo tốt như như một hoa nào trong giống đó… Vậy chớ lo lắng chi ngày mai, vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai.”
Gasan nói: “Ai nói những lời đó, tôi cho là một người đã giác ngộ.”
Sinh viên đọc tiếp: “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp hãy gõ sẽ mở cho. Bởi vì hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ thì được mở.” (Mt 7, 7-8)
Gasan phê bình: “Thật là tuyệt! Ai nói điều đó không xa Phật tánh.”
* * *
Từ đây, nắm được bí quyết quan trọng để đạt được những giá trị cao quý trên đời, chúng ta không dại khờ ngồi ước mơ suông, nhưng phải ra công thực hiện, vì phương tiện sẵn có trong tầm tay. Chỉ cần liên lỉ xin, kiên quyết tìm và nhẫn nại gõ thì chúng ta sẽ thủ đắc được những giá trị cao quý mà lâu nay chỉ có trong mơ. Với bí quyết nầy, chúng ta có thể biến những ước mơ thành hiện thực.
9. Lạy Cha chúng con…
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Vào cuối thập niên 80, tại Rumani, một trận động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người chết. Ngay sau trận động đất, một người cha đã chạy đến nhà trường tìm đứa con trai của mình.
Ngôi trường nhiều tầng đã sập đổ, nhưng người cha cố đào bới trong đống gạch vụn để tìm con. Những người cứu hộ và cảnh sát bảo ông hãy về nhà và đừng đào bới nữa vì rất nguy hiểm. Nhưng ông không nghe và cứ tiếp tục đào bới.
Ông đào bới trong suốt 12 tiếng đồng hồ cũng chẳng thấy tăm hơi người con đâu. Ông vừa đào bới vừa nghĩ: “Mình đã hứa thì phải thực hiện lời hứa, biết đâu nó còn sống trong đống gạch này thì sao?”
Nghĩ thế rồi, ông lại tiếp tục đào bới, 24 tiếng rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua… ông chợt nghe tiếng động. Ông gọi tên người con và ông nghe thấy tiếng kêu rất nhỏ từ xa vọng lại: “Ba ơi”. Nước mắt ông tuôn trào và ông hăng hái đào tiếp đến tận phòng của đứa con.
Thằng bé còn sống cùng với 20 đứa khác trong một góc phòng chưa bị sập. Nó ôm chầm lấy người cha và nói: “Con đã bảo với các bạn của con rồi: “ba tôi đã nói, dù thế nào ba cũng đến đón tôi. Các bạn cứ yên tâm đi, chắc chắn ba tôi sẽ đến”.
Tiếng kêu ba ơi của đứa bé nghe như âm vang lời kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Lời kinh Lạy Cha, là điệp khúc được lập lại nhiều nhất trong cuộc đời người tín hữu. Lời kinh này chúng ta có thể thốt lên bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu. Khi vui, khi buồn. Khi thành công hay khi thất bại. Khi ở nhà hay hành hương nơi xa. Tất cả trong mọi hoàn cảnh chúng ta đều có thể thưa lên Lạy cha chúng con ở trên trời. Đây là điệp khúc được lập đi lập lại mà không bao giờ nhàm chán. Vì lời đó là gạch nối cho tình cha con luôn gần gũi đậm đà yêu thương, là nhịp cầu cho tình con người vươn lên làm con Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa của Kytô giáo không phải là vị thần ở chốn xa xôi nào đó, càng không phải là một vị thần chỉ để con người đóng khung và “kính nhi viễn chi”, mà là một người cha luôn ân cần chăm sóc người con. Dù người con có hoang đàng tội lỗi cha vẫn thứ tha. Dù người con mải mê thế trần cha vẫn kiên nhẫn tìm con trở về. Một người cha thật đại lượng bao dung đến nỗi cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Một người Cha hết lòng vì loài thụ tạo đến nỗi đã ban Con Một cho trần gian để cứu chuộc trần gian. Một người cha luôn lo lắng cho con cái đến nỗi còn quan tâm đến sự sinh tồn của từng sợi tóc của con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha. Ngài đã sống với nhân loại trong tình bao dung và độ lượng. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu. Ngài đã đi đến tận cùng của việc quên mình là tha thứ cho kẻ đã hành hạ và kết án mình. Ngài đã dùng tình yêu để đẩy lùi sự dữ. Ngài đã dùng tình yêu để hoán cải những người lầm lỗi và tạo điều kiện cho kẻ lầm đường lạc lối trở về.
Vâng, cuộc đời chúng ta có vui có buồn. Có những lúc thành công và có những khi thất bại. Có đau khổ và hạnh phúc. Điều đó nói lên sự bấp bênh của giòng đời. Con ngừơi luôn mang yếu tố bất định, chúng ta chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Vì thế, kẻ khôn ngoan là biết phó thác mọi sự cho Chúa là Cha. Chính người sẽ lo liệu những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Không một người Cha nào lại bỏ rơi con cái thì Thiên Chúa cũng định liệu và an bài mọi sự cho chúng ta, miễn là chúng ta hãy sống hết mình trong tình con thảo với Cha và hết mình sống yêu thương và phục vụ anh em đồng loại. Khi chúng ta sống phó thác cho Chúa là lúc chúng ta tìm được an bình trong thánh ý Thiên Chúa. Cho dù cuộc đời có những lúc nổi trôi, có những trái ngang trắc trở, chúng ta vẫn tràn đầy niềm hy vọng vì có Chúa luôn phù trợ chúng ta. Vì ai bền đỗ đến cùng thì người đó sẽ được ơn cứu thoát. Amen.
[Mục Lục]
10. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đức Giêsu đem một sứ điệp đến cho chúng ta. Trọng tâm sứ điệp là giáo huấn của Người về Thiên Chúa. Không ai biết được Thiên Chúa ngoại trừ Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô cùng, chi phối mọi khởi sự cũng như mọi cùng tận, là Chúa tể tối cao điều khiển mọi vận mạng, không ai biết được Thiên Chúa nếu chính Thiên Chúa không mặc khải cho. “Không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Lc 10,22). Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết về danh thánh Thiên Chúa và cách nói với Thiên Chúa. Các môn đệ hỏi Chúa phải cầu nguyện thế nào. Các ông được Chúa dạy cho Kinh Lạy Cha. Bài đọc hôm nay chỉ dẫn đầy đủ về giá trị kinh nguyện phải có. Lời cầu xin phải bày tỏ lòng tin tưởng thiết tha trong bầu khí thân thiết, hiếu thảo. Thân mật, nhưng phải có thái độ thờ phụng từ trong thâm tâm biểu lộ ra ngoài, điều ấy cần được chúng ta nhấn mạnh. Khi cầu nguyện, Kitô hữu trước hết ước nguyện: “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”. Vậy thờ phụng cách hiếu thảo là gì?
1) Cầu nguyện, trước hết là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật. Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy. Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.
2) Sự thờ phụng của Kitô hữu đậm tình hiếu thảo vì lẽ, nhờ lời giảng dạy của Đức Kitô, Kitô hữu biết rằng Thiên Chúa là Cha. Sở dĩ tâm tình chúng ta thành thật và trong sạch vì giữ được thực chất của nguồn mạch. Phân tích tới cùng, chúng ta thấy nguồn mạch là Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, Cha chúng ta. Đọc lên câu “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”, chúng ta ý thức, thừa nhận, tuyên xưng Thiên Chúa là sự Tuyệt Đối, đồng thời là Cha mình. Tâm tình ấy phù hợp với sự thật sâu sắc dâng lên trong tâm hồn như một ngọn suối, do chính Đức Giêsu khởi lên. Khi chúng ta thốt ra tiếng “Lạy Cha”, chúng ta phát ra một lời nói tự do và hiếu thảo biểu lộ sự thật tha thiết nhất trong chúng ta. Chúng ta biểu lộ con người đích thật của mình khi thưa với Thiên Chúa: Lạy Cha. Ai cũng biết, chính sự thật đem lại ơn cứu độ…
11. Suy niệm của Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
VỚI CHÚA GIÊSU CHÚNG TA CẦU NGUYỆN “LẠY CHA” – “ABBA”
Lời cầu nguyện của Chúa “Kinh Lạy Cha” là một lời nguyện riêng nổi bật trong khi dâng Thánh Lễ. Một nguyên nhân của việc đó là chúng ta hãy cám ơn những sự thay đổi đã diễn ra trong Công đồng Vatican II, đó là tất cả chúng ta có thể nói hoặc hát lời linh này bằng chính ngôn ngữ của mình. (Thật là khó để nhận ra trước đây được gọi là Thánh Lễ theo Công đồng Tridentino, chỉ một mình linh mục được đọc lời nguyện này và ngài đã đọc nói bằng tiếng Latin; không một người nào được phép đọc chung với vị linh mục). Mọi người dâng lời kinh này khi đứng đôi khi họ dang tay, thỉnh thoảng họ hướng mắt lên trời, đôi khi họ nắm tay với những người lân cận, nhưng luôn luôn có vẻ như là lời kinh này có một sự chú ý đặc biệt.
Lời cầu nguyện của Chúa mà chúng ta nghe trong Phúc Âm Thánh Luca có một điểm khác với lời kinh chúng ta dùng trong Thánh Lễ, lời kinh này chúng ta đọc theo đoạn Phúc Âm của Thánh Mathêu (6,9-12) chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự khác nhau này. Thứ nhất, cầu nguyện thì rất quan trọng nên chúng ta giả thiết là Chúa Giêsu đã dạy nó trong nhiều dịp và không luôn luôn chính xác cùng một lời đó. Thứ hai lời nguyện đó đã là một phần của phụng vụ cho hơn một thế hệ trước khi những cuốn Phúc Âm được viết ra. Lời cầu nguyện đó đã được ghi lại theo trí nhớ và kết quả là có những sự khác nhau không đáng kể cho đến khi Thánh Luca và Thánh Mathêu đã viết ra lời kinh chung được đọc trong những cộng đoàn riêng biệt của các ngài.
Tất cả những điều này dẫn đến một kết luận quan trọng. Cái điều mới và đặc biệt trong lời kinh nguyện này thì không phải là bản tính hoặc là số lời cầu xin trong kinh nguyện. Sau hết, người Do Thái thường cầu nguyện rằng, danh của Thiên Chúa phải được thần thánh hoá và ý muốn Ngài phải được thực hiện. Thánh Vịnh 51 từ Cựu Ước là một lời kinh nguyện nồng nhiệt và hùng biện về sự tha thứ đã không “thấm tháp gì” kinh nguyện tha thứ trong kinh Lạy Cha.
Điều đặc biệt của kinh nguyện là cung cách độc nhất mà Chúa Giêsu đã diễn tả về Thiên Chúa. Ngài đã kêu lên Chúa, Đấng quyền năng, Đấng Sáng Tạo nên trời và đất, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết như là “Cha” không chính xác như là “Cha” nhưng là “Abba” cha ơi, chữ này có nghĩa thân mật hơn như là “papa” hoặc “Daddy”, đó chính là cách mà các trẻ nhỏ gọi cha của mình với một tình yêu thân mật và sự quen thân trong sáng, khi muốn nói với cha của mình. Trong tất cả những lời nói của Chúa Giêsu đã được ghi chép lại trong Phúc Âm thì chắc chắn chữ “Abba” cha ơi là một trong những chữ thánh thiêng nhất.
Hãy suy nghĩ về lời cầu nguyện của Abraham và của Chúa Giêsu khác nhau như thế nào. Abraham, cha của dân tộc được chọn, tổ phụ của chúng ta trong đức tin đã dám đến gần Chúa, nài xin Ngài tha thứ cho dân Sodoma và Gomora. Ông đã không ngại ngùng trả giá với Thiên Chúa. Nhưng ông không dám gọi Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã gọi, ông sẽ không bao giờ dám nói: “Được rồi, Cha ơi, Cha hãy thương tình và đối xử nhẹ nhàng với Sodoma và Gomora”. Không một người nào dám gọi Thiên Chúa là “Abba”, “Daddy” (Cha ơi), như Chúa Giêsu đã làm.
Và tất cả chúng ta đều được mời gọi thật sự, để nói về và gọi Thiên Chúa là “Abba”, người Cha thân yêu của mỗi chúng ta. Lý do mà chúng ta có thể làm như vậy, là Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta một đời sống mới thông hiệp với Đức Kitô. Đó là một gia đình sự sống của Ba Ngôi ân phúc, sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận nơi phép rửa, khi mà chúng ta trở nên những chi thể của Giáo Hội, gia đình của Thiên Chúa ở đây trên mặt đất này.
Bất kỳ thái độ hay cử chỉ nào mà chúng ta có trong lời kinh của Chúa nơi Thánh Lễ, thì chúng ta cũng phải biết là chúng ta được hạnh phúc biết bao vì được gọi Thiên Chúa là “Abba” cha ơi, như Chúa Giêsu đã gọi, đó là tên gọi của Người “Abba” Cha ơi.
12. Cầu xin hay cầu nguyện?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thuỷ tiên thật đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những cánh hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo:
“Thưa cô, có phải Chúa đã làm ra những bông hoa nầy không cô? Em muốn gọi điện thoại để cám ơn Chúa đã cho chúng ta những cánh hoa đẹp như thế nầy!”
Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: một đường dây cho những lời cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn, trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến, như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:
Hai thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như nhà những người nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Sau một thời gian, hai thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của thiên thần kia có vẻ như đựng toàn bông gòn.
- “Ông mang gì mà nặng nề thế?”, một thiên thần hỏi. Thiên thần mang giỏ nặng trả lời:
- “Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?”
- “À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời thiên hạ cám ơn Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ”.
Thì ra, chiếc giỏ thu nhận lời cầu xin luôn nặng hơn chiếc giỏ thu nhận lời cám ơn. Cũng thế, đường dây điện thoại để xin ơn thì luôn bận rộn, còn đường dây để cám ơn thì không mấy khi có người gọi.
Phải, thưa anh chị em, thường thì chúng ta chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện luôn bao gồm cả lời chúc tụng tôn vinh và cảm tạ tri ân Thiên Chúa. Hôm nay, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa như con cái nói chuyện với cha mẹ. Cầu nguyện chủ yếu là một cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu khi còn sống ở trần gian cũng đã cầu nguyện, và Ngài đã dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn. Cũng chính Ngài đã đưa ra một “kinh nghiệm mẫu” mà chúng ta gọi là “Kinh Lạy Cha” – đúng hơn là “Kinh nguyện của Chúa” để cho chúng ta biết phải cầu xin những điều gì và cầu nguyện như thế nào.
Vậy chúng ta phải cầu xin những điều gì?
Nói một cách vắn gọn, chúng ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha, con là Đấng ngự trên trời”.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là “cho chúng ta hôm nay lương thực hằng ngày”, có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đường xó chợ… Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra con người.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì chính bản thân chúng ta cũng là kẻ có tội cần được tha thứ. “Xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Như vậy, cầu nguyện là đồng hoá ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa và phải hành động để ý muốn của Chúa được thể hiện trên mặt đất nầy: “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thế nhưng, chúng ta thường chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện, và có những lời cầu xin hết sức vụ lợi, ích kỷ. Chẳng hạn xin cho “trúng tuyển, trúng số, trúng mánh…”. Hoặc chúng ta chỉ nghĩ đến Chúa khi chán nản, thất vọng, để than thở, kể lể, như bắt Chúa phải thông cảm những nỗi ấm ức trong lòng mình. Còn gì vô lý và sai lầm hơn khi chúng ta cứ coi Thiên Chúa như một “Thần Tài”, như một “thủ kho” để xin Ngài những nhu cầu mà đúng ra, với tự do, khối óc và hai bàn tay Chúa ban cho, chúng ta phải tự làm lấy, tự xoay xở lấy với sự trợ giúp của Chúa và dưới ánh mắt yêu thương của Ngài. Nếu chỉ cầu xin bằng môi miệng mà chẳng chịu làm gì cả, thì lời cầu xin đó có khác gì những bùa chú, phù phép của hạng người mê tín dị đoan: Xin cho có lương thực hằng ngày mà mình cứ ngồi không, hoặc nằm ngửa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được? Hoặc xin cho mọi người được ấm no hạnh phúc, mà mình cứ áp bức, bóc lột, làm điều bất công, hay là cứ để cho những chuyện bất công ấy lan tràn mà không chịu tranh đấu để đòi hỏi công bình, đòi quyền sống của con người, thì làm sao có ấm no, hạnh phúc, hoà bình được? Chính vì thái độ nầy mà nhiều khi tôn giáo bị mang tiếng là mê tín, là thuốc phiện ru ngủ dân chúng!
Vậy, thưa anh chị em, chúng ta phải cầu xin như thế nào?
Nếu phải cầu xin thì chúng ta phải cầu xin một cách kiên trì với một xác tín, tin tưởng vào tình thương của Cha trên trời, Ngài tốt lành, nhân hậu hơn cha chúng ta ở dưới đất vô cùng. Vì người đời mà còn cho bạn bè vay mượn khi bạn bè năn nỉ, khuấy rầy, huống chi là Thiên Chúa. Ngài là người Cha yêu thương mọi người, con cái, chắc chắn sẽ ban cho ta điều chúng ta cầu xin: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, sẽ mở”. Người cha nào mà không giúp đỡ con cái khi cần thiết, không cung cấp những điều thích hợp khi chúng đã xin. Cha là Cha nhân từ, Ngài cũng không thể làm khác được, nhất là chẳng bao giờ cho cái gì sinh nguy hại cho con cái. Bởi vậy, điều chúng ta xin Thiên Chúa phải là điều thích hợp, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”. “Hãy xin thì sẽ được”, nhưng với điều kiện là xin những gì thực sự giúp đời sống thêm tốt đẹp, tìm những gì dẫn đến ơn cứu độ, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của con người, đồng thời phải kết hợp giữa sự giúp đỡ của ơn Chúa với việc làm trong khả năng Chúa đã ban cho mỗi người.
Cuối cùng, ơn đặc biệt mà Chúa sẽ ban cho những ai xin Ngài đó là Thánh Thần, vì Thánh Thần sẽ là Đấng cầu xin trong chúng ta, bảo đảm lời cầu xin là xác đáng, và cũng chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết, vì Ngài là ơn huệ của Thiên Chúa ban cho loài người.
Anh chị em thân mến, phụng vụ Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện có hiệu lực. Vì chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện theo lời Chúa truyền dạy, chúng ta cầu nguyện nhờ công ơn vô cùng của Chúa Kitô, với Người và trong Người. Xin cho chúng ta biết cầu nguyện và xin Chúa nhận lời cầu xin của chúng ta và của tất cả mọi người.
13. Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi…’ – Veritas)
Một giai thoại được kể lại như sau: Một thương gia kia cần một triệu đôla để giải quyết một việc hệ trọng, ông tới nhà thờ cầu nguyện xin cho có được số tiền đó. Tình cờ ông quì ngay cạnh một người đàn ông, người đàn ông này cùng cầu nguyện với những lời nhỏ nhẹ, nhưng ông thương gia kia vẫn nghe biết ông ta đang xin. Ông cầu xin cho có được 100 đôla để trả một món nợ gấp. Vị thương gia liền rút từ ví của mình 100 đôla và đặt vào tay người kia. Quá đỗi vui mừng, người đàn ông đứng lên và ra khỏi nhà thờ ngay tức thì. Vị thương gia giờ đây nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, giờ đây hẳn Ngài không còn phải bị phân tâm nữa, xin hãy lắng nghe con cầu xin”.
Câu chuyện của hai người đàn ông cho chúng ta thấy điều tích cực là dù ở trong tình trạng thang bậc nào trong xã hội họ vẫn chân thành cầu nguyện. Tuy nhiên, cách nào đó họ đã làm nổi bật vấn đề mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới, đó là cách cầu nguyện của người Kitô hữu. Trong cả hai trường hợp, Chúa trở thành hay được coi như là ông chủ một nhà tỷ phú. Phải chăng, đó là lối cầu nguyện và cách nhìn phù hợp của người Kitô hữu chúng ta.
Lời các môn đệ thưa với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”, có thể được hiểu như là một khát vọng chính đáng của biết bao nhiêu người Kitô hữu về cách cầu nguyện. Lời đáp lại của Đức Giêsu cũng có thể được tóm gọn trong một câu như sau: Lời cầu nguyện của người Kitô hữu phải là lời của một người con đối với cha của mình. Ngài nói: “Khi anh em cầu nguyện hãy nói, Lạy Cha… Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt, của lành phương chi Cha anh em ở trên trời…” Chúng ta có thể thấy ngay được rằng, cầu nguyện theo Đức Giêsu là vấn đề giữa người cha và người con. Nói cách khác, cầu nguyện là một vấn đề nội bộ trong gia đình, đặt trên nền tảng của hiểu biết, thông cảm và yêu thương. Đức Giêsu dùng hình ảnh người cha ở đây để tả lại hình ảnh mà người ta thường gán cho Thiên Chúa, một ông chủ hay một ông vua, những người thường được người khác sợ hơn là mến.
Chúng ta có thể coi Thiên Chúa như là Cha và cũng có thể coi Ngài như là Mẹ. Cả hai hình ảnh này đều nói với chúng ta về mối tương quan dựa trên tình thương và huyết thống, chứ không phải quyền lực hay chức vụ.
Cầu nguyện của người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường. Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nói: “Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá thay vì cá lại lấy con rắn mà cho nó, hoặc nó xin trứng lại cho nó con bọ cạp”. Cũng vậy, con cái Thiên Chúa đến với Ngài với thái độ tin tưởng, hy vọng, biết rằng Ngài sẽ dành cho họ tất cả những gì là tốt nhất.
Khi nói về cầu nguyện, chúng ta cũng cần nhìn tới về một khía cạnh khác, đó là sự kiên trì, giống như người bạn lúc nửa đêm trong bài Tin Mừng. Con cái chẳng lấy gì chấp nhận câu trả lời không, nếu cha mẹ có trả lời là không thì điều chắc chắn là ngày hôm sau và có thể hôm sau, hôm sau nữa chúng vẫn trở lại với cùng một điều xin.
Đức Giêsu dạy chúng ta, con cái của Thiên Chúa cần phải biết kiên trì trong cầu nguyện. Coi cầu nguyện như là việc giữa cha và con, điều này cũng nhắc cho chúng ta biết cầu nguyện là một hành vi phát xuất từ một mối tương quan. Chúng ta có thể coi việc cầu nguyện tốt hơn, nhưng chúng ta cũng có thể trở thành những con người tốt hơn của cầu nguyện, khi mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa trở nên thân mật gần gũi hơn như là một mối liên hệ giữa cha và con.
Vậy, nếu anh chị em muốn cải thiện việc cầu nguyện của mình, hãy tập trung vào mối tương quan thân mật giữa cha và con, giữa Thiên Chúa và con cái.
14. Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ – McCarthy
Suy Niệm 1. KINH LẠY CHA
Kinh Lạy Cha là kinh đầu tiên và cao trọng nhất trong các kinh nguyện Kitô giáo (Tôi đang nghĩ đến bản kinh của Thánh Mát thêu). Những câu ngắn gọn và đơn giản của nó bao hàm mọi tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa. Nó không chỉ nói với chúng ta phải cầu nguyện điều gì mà còn cầu nguyện điều ấy như thế nào.
Tuy nhiên, người ta có xu hướng đọc kinh ấy quá vội vàng và thiếu suy gẫm đến nỗi làm mất ý nghĩa của nó. Đó là một điều đáng tiếc. Bởi vì, hiểu một cách chính xác, Kinh Lạy Cha chứa đựng trong đó, chúng ta sẽ trở nên hoàn hảo theo tinh thần của của Đức Kitô, bởi vì không chút nghi ngờ đây là cách mà chính Người đã cầu nguyện và đã sống.
Phần đầu tiên đề cập đến Thiên Chúa.
Chúng ta bắt đầu sự hiểu biết hiện hữu của Thiên Chúa, và gọi Người là Cha. Thiên Chúa là cội nguồn của chúng ta và chúng ta là con cái của Người. Một đôi khi, Người hành động như một người cha, và một đôi khi như một người mẹ.
Kế đó chúng ta ca tụng danh Người. Bằng việc ca tụng danh Người, chúng ta cầu nguyện chính Người.
Chúng ta cầu nguyện cho Nước của Người mau đến – một vương quốc của sự thật và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hoà bình. Chúng ta đóng góp phần mình để làm cho vương quốc của Người thành hiện thực.
Chúng ta cầu nguyện để ý muốn của Người được thực hiện trên mặt đất. “Trên mặt đất” cũng có nghĩa là trong đời sống của chúng ta. Ý muốn của Thiên Chúa không phải lúc nào cũng là điều dễ làm nhất, nhưng nó luôn luôn là điều tốt nhất.
Phần thứ hai đề cập đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta.
Chúng ta bắt đầu bằng công việc cầu xin lương thực hàng ngày. “Lương thực” thay cho mọi nhu cầu vật chất. Tuy nhiên, mọi nhu cầu thật cần thiết của chúng ta có đủ cho ngày hôm nay.
Chúng ta cầu xin tha thứ các tội lỗi của chúng ta, và xin ơn có thể tha thứ cho người khác đã phạm tội chống lại chúng ta. Không thể tha thứ cho người khác sẽ không thể nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin không sa chước cám dỗ. Thiên Chúa không đặt sự cám dỗ trong đường lối của chúng ta nhưng cuộc đời làm điều ấy. Và chính chúng ta đôi lúc bước vào cám dỗ với sự đồng tình. Chúng ta xin Thiên Chúa giúp chúng ta đương đầu với sự cám dỗ tự ý đến với chúng ta, và tránh xa những cám dỗ mà chính chúng ta chọn lựa.
Sau cùng, chúng ta cầu xin được cứu khỏi mọi sự dữ, cả sự dữ vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta không mong bao giờ gặp sự dữ. Điều mà chúng ta cầu xin Thiên Chúa là có được ân sủng chiến thắng mọi sự dữ, đặc biệt là sự dữ tinh thần.
Hãy ghi nhận rằng toàn bộ kinh Lạy Cha được diễn tả bằng từ ngữ ở số nhiều. Điều ấy cho thấy chúng ta là một gia đình dưới quyền Thiên Chúa, và do đó không thể có sự cứu chuộc chúng ta độc lập với sự cứu chuộc những người khác.
Suy Niệm 2. KHÔNG TRỪNG PHẠT NGƯỜI VÔ TỘI
Hình ảnh của Abraham mặc cả với Thiên Chúa mặc cả với Thiên Chúa để cứu Xơđôm và Gômora là hình ảnh hấp dẫn. Ý tưởng chúng ta bắt gặp ở đây là Thiên Chúa sẽ không trừng phạt một số đông người tội lỗi nếu đồng thời một số ít người công chính cũng bị trừng phạt. Chúng ta thường có thái độ hoàn toàn trái ngược. Chúng ta rất muốn trừng phạt một số đông người vô tội cùng với một số ít người có tội cũng bị phạt. Hãy lấy một ít ví dụ.
Khi các chính phủ đánh quân du kích, người ta không ngần ngại tiêu diệt cả một ngôi làng gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con. Điều đó đã xảy ra ở Việt Nam, ở Achentina (trong suốt những cuộc chiến tranh được gọi là “chiến tranh bẩn thỉu”) và ở nhiều nơi khác. Các quân du kích cũng không ngần ngại sử dụng chiến thuật tương tự.
Một đôi khi sự việc tương tự có thể xảy ra trong trường học. Thầy giáo ra khỏi lớp một phút. Khi ông trở lại lớp học, ông thấy cái ghế đã bị bẻ gãy. Thuyết phục hoặc đe doạ cũng vô ích, kẻ tội phạm không thú nhận, những học sinh khác không nói tên thủ phạm. Thế là thầy giáo phạt cả lớp. Cả lớp phải ở lại sau giờ học.
Cũng sự việc ấy xảy ra ở nhà. Một vài đồ vật bị ngã đổ vương vãi khi bà mẹ vừa quay lưng đi. Không một ai thú nhận. Vậy tất cả con cái bị trừng phạt. Không được xem tivi buổi tối.
Điều đó có xu hướng trở thành phương thế đầu tiên của chúng ta, và chúng ta coi đó là rất khôn ngoan và công bằng. Nhưng có phải như vậy không? Trừng phạt chín mươi chín người vô tội chỉ vì một người có tội như vậy có đúng không? Dĩ nhiên là không. Điều đó là bất công. Bị trừng phạt vì một điều mà bạn không làm thật là khủng khiếp. Nó để lại trong lòng bạn một cảm giác vô cùng cay đắng.
Dù có vẻ hấp dẫn, đó không phải là một giải pháp của Kitô giáo cũng không phải là một giải pháp nhân bản. Thiên Chúa không bao giờ dùng phương thế đó. Bài đọc 1 nói với chúng ta điều đó. Đức Giêsu cũng dạy chúng ta bài học ấy trong dụ ngôn lúa mì và cỏ lùng. Người gieo hạt sẽ không nhổ những chùm cỏ lùng vì như thế sẽ làm lúa mì cũng bật rễ.
Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm thế nào vượt qua điều ác mà không gây thêm điều ác. Người ta phải kháng cự điều ác. Nhưng chúng ta phải làm cách nào để trong quá trình đó, chúng ta không gây ra thêm điều ác. Điều ác không thể bị vượt qua bằng điều ác, mà chỉ bị vượt qua bằng điều thiện.
15. Suy niệm của R. Gutzwiller
LẠY CHA CHÚNG CON (11, 1-4)
Khác hẳn với cô Matta, Maria nhận ra rằng phải có những khoảnh khắc đặc biệt dành riêng để lắng nghe Chúa nói và thân thưa với Ngài. Đó là thời giờ cầu nguyện. Ở đây, ta thấy Đức Giêsu giảng giải cách thực hành về chủ đề ấy.
Trong Tin mừng theo Th. Mathêu, chủ đề ấy đặt liền với bài giảng trên núi; Thực tế chúng ta không biết Chúa đã dạy kinh Lạy Cha vào lúc nào, nhưng điểm đó không quan trọng cho lắm, điểm cốt yếu chắc hẳn phải là chính nội dung nòng cốt của Kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha được Thánh Luca ghi lại đơn giản, vắn tắt hơn nơi Th. Mathêu. Nơi Thánh Luca, lời cầu xin thứ ba và thứ bảy không có. Dĩ nhiên thánh ký phải nhận rằng, khi hoàn tất cả hai phần của kinh đó, thì hai lời cầu xin bị bỏ kia đều ngậm thực sự trong những lời cầu xin trên. Khi ghi lại kinh lạy Cha, thánh sử cố tìm sự đơn giản tối đa; nên chúng ta càng phải tìm hiểu những ý tưởng cô đọng ấy, những ý tưởng tập trung, ẩn tàng dưới vẻ ngắn gọn của những lời cầu xin này.
‘Chúng con nguyện danh Cha cả sáng’.
Đây không phải là một yêu sách, một quyết ý mà chỉ là một lời cầu xin. Thiên Chúa phải làm cho danh Ngài cả sáng tức là làm cho loài người nhận rõ sự thánh thiện của Ngài hơn nữa và khiến cho sự thánh thiện ấy chiếu tỏ rạng ngời.
Mọi cái thuộc về nhân loại và trần thế phải được Thiên Chúa chiếu sáng. Vĩnh cửu soi rọi cho tạm bợ, hằng hữu cho mau qua, bất biến thay cho biến đổi. Trời cao sẽ thống trị trái đất, tuyệt đối sẽ làm chủ tương đối, tất yếu sẽ đứng trên bất tất, con người tự do thay cho phận nô lệ, thánh nhân thế chỗ tội nhân, người thanh sạch thế kẻ nhơ uế, người được thương xót thế tội phạm; nhất là những gì còn bấp bênh và không bền vững sẽ được thay thế bằng cái kiên vững tối hảo, những gì là bất an sẽ được thay thế bằng bình an rất mực, hạn hữu sẽ được thay thế bằng vô biên.
Danh Ngài và qua Danh Ngài là chính Ngài tỏ hiện rõ ràng nơi Đức Giêsu Kitô. Chúa Con là mặc khải của Chúa Cha. Danh tánh Đức Giêsu có nghĩa là: Đức-Giavê là nguồn cứu độ. Như thế có nghĩa: nhờ Đức Giêsu, danh Thiên Chúa cứu độ và thánh hoá được loan truyền.
Thiên Chúa là Đức Chúa. Đức Giêsu nhận biết điều ấy trong một cuộc đời luôn vâng phục hoàn toàn, vâng phục Ngài như bậc Thầy Tối cao và lại công bố như thế cho loài người tệ bạc. Đức Giêsu đã sống trong tình yêu Cha mình và đã chứng tỏ cho mọi người biết Thiên Chúa là tình yêu.
Do đó, lời cầu xin ‘cho Danh Cha được hiển thánh’ trên môi Ngài phải có một âm vang đặc biệt.
‘Nước Cha trị đến’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này hàm ẩn cả lời nguyện xin thứ ba: ‘Ý Cha được thể hiện’. Như vậy, Nước Cha được hình dung là vương quyền tối cao của Thiên Chúa; nên ý Cha phải được thể hiện khắp mọi nơi, vì ý Cha là khôn ngoan và yêu thương. Nơi nào ý Cha chủ trị, thị mọi sự đều ổn thoả theo sự khôn ngoan Ngài và tràn ngập tình yêu Ngài.
Đó là một vương quốc hoà bình, vì hoà bình chẳng qua là yên hàn trong trật tự. Và đó là một vương quốc tình thương vì quyền uy và thế lực tối cao không phải chiếm được bằng bạo lực nhưng là bằng sự nhận biết cách vui vẻ. Mỗi một việc phục vụ –khi nhắm phục vụ Thiên Chúa- đều hoàn thành với sự tự do vương giả.
Và theo lối nói xưa của sách Khải Huyền, tất cả những ai thuộc về vương quốc của Thiên Chúa, đều là những vị hoàng vương tư tế, những vị tư tế (hoàng vương).
Nước Thiên Chúa là ước mơ cao nhất của nhân loại, là sự thể hiện mọi lý tưởng, vượt quá mọi thế lực chính trị, xã hội và Kinh tế. Nhưng sự hiểu thánh danh Thiên Chúa cách trọn vẹn và việc thiết lập vững bền Nước Thiên Chúa là những giá trị có tính cách cánh chung. Những giá trị này chỉ thành toàn khi Chúa lại đến, khi bản tính Thiên Chúa tỏ hiện rõ ràng trong vinh quang Ngài và khi Nước Thiên Chúa đạt đến sự viên mãn.
‘Xin cho chúng con lương thực hằng ngày’. Giữa hai lời nguyện xin về bản tính ‘siêu nhiên’ của chính Bản thể Thiên Chúa về nước Thiên Chúa và hai lời nguyện xin sau nói về ‘hạ nhiên’ (infra naturel) (tội và cám dỗ), là một lời cầu xin về lương thực xét trên bình diện hoàn toàn có tính cách phàm nhân. Bánh được coi là thứ lương thực hàng đầu trong số những thực phẩm trần thế. Con người, vì là Con Thiên Chúa, không thể bị cơn đói dằn vặt và cũng không được sống trong sự quá dư thừa. Do đó cũng cần phải xin Cha cho được lương thực cần thiết mỗi ngày. Một khi con người cứ phải đương đầu với cơn đói, thì hẳn là chẳng còn hơi sức đâu, thời gian nào để nghĩ tưởng đến những thực tại trên cao.
Con người có thể liều mình sa vào hố thất vọng và có nguy cơ tráo trở với Thiên Chúa. Nhưng nếu con người đắm chìm trong của ăn thức uống, thì cái bản ngã tuyệt hảo của hắn sẽ chết ngạt trong chủ nghĩa tôn thờ vật chất. Con người sẽ héo hắt vì thiếu của ăn áo mặc, đang khi đó sự dư thừa lại cản ngăn con người sống tự do về mặt thiêng liêng. Giữa hai thái cực đói kém và dư thừa, một chỗ đứng thích hợp nhất phải là sự điều hoà cân xứng và chỉ có như vậy, con người mới có thể sống đạo đức được.
Đó là lý do tại sao lại có lời nguyện xin này, một lời cầu đề cập đến sự an toàn trong khuôn khổ và không gian, thuộc về trần thế và trong môi trường.
Lời cầu nguyện ấy cũng có thể bao hàm một ý nghĩa bao quát hơn, thuộc lãnh vực tinh thần. Lời Thiên Chúa trở nên lương thực nuôi tâm hồn, nên của ăn tinh thần. Con người khẩn cầu Thiên Chúa ban cho Lời hằng sống ấy. Con người xin Thiên Chúa ngỏ lời với thụ tạo và con người xin cho mình cũng hiểu được lời đáng nghe của Thiên Chúa phát ra tự đáy lòng, thứ lời đã được ghi chép trong Thánh kinh và con người xin cho được sống bằng lời ấy. Bởi vì ‘con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra’ (Mt 4,4)
Bánh còn có nghĩa về mầu nhiệm Thánh Thể ‘Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống’. Con người rất cần thứ bánh nhiệm mầu ấy để khỏi bị chết ngạt bởi những lo âu về kinh tế.
Sau hết, Bánh đây chính là Đức Kitô. ‘Ta là Bánh sự sống’. Bởi thế, lời cầu xin này tuy phát xuất do những nhu cầu thiêng liêng và siêu nhiên, để rồi sau cùng lại gán cho chính Chúa.
Nó là giả thiết một thần học về bánh, bởi vì với nhãn quan người Kitô hữu, mọi sự đều được thánh hiến và thánh hoá cách đạo hạnh.
‘Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Trước Thiên Chúa, con người là kẻ mắc nợ. Đối với người đạo đức, tội lỗi là một gánh nặng chèn ép họ. Nó làm cho họ phải xa rời Thiên Chúa, dựng lên một bức tường ngăn cách họ với Thiên Chúa, phá huỷ những mảnh vườn đầy hoa tươi nở, làm tan hoang bình địa mọi công trình xây dựng.
Tội khiến đời sống trở nên mù tối, và làm cho con người nên như trò cười đáng mỉa mai. Hình ảnh Thiên Chúa bị bôi nhọ và đền thánh bị tục hoá. ‘Ích gì cho con người chiếm được cả thế giới mà để mất linh hồn’. Dĩ nhiên, tội làm thương tổn linh hồn, tệ hơn nữa, nó còn làm mất đời sống siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho con người, và như thế, tội còn làm cho con người không được dự phần vào chính Thiên Chúa. Tội phá huỷ mọi niềm hy vọng vĩnh cửu, tội ngăn chặn mọi nẻo đường dẫn đến tương lai.
Và vì thế, lời cầu xin tha thứ là một lời khẩn cầu cấp bách. Những ai đã được tha thứ, thì chính mình cũng phải biết thứ tha. Đã hưởng lòng Chúa xót thương, con người không thể cứng lòng với tha nhân. Kẻ có nợ được chủ nợ tha cho hoàn toàn, thì chính kẻ ấy cũng không thể là một chủ nợ nghiêm khắc.
Ở đây lời nguyện xin trở thành một yêu sách, một đòi hỏi.
‘Chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này bao gồm cả lời nguyện xin giải thoát khỏi sự dữ và Satan. Cơn cám dỗ là con đường của vực thẳm, là lối đi dẫn tới hoả ngục,là khu vực của quỉ ma, là sự gần kề đầy doạ nạt của địa ngục, của những bóng đen ghê rợn quái ác luôn rình mò lượn quanh con người.
Ân sủng là khí giới, là sự bảo đảm chở che… Ánh sáng từ trời xuống đánh tan những bóng tối dữ tợn. Và tiếng nói từ trên cao càng vang dội mạnh bao nhiêu, thì tiếng gầm thét của vực thẳm càng cố vươn lên bấy nhiêu. Chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới gìn giữ canh chừng con người thoát khỏi rơi vào nguy hiểm, vào vực thẳm. Chỉ nơi Ngài, đời sống đầy chông gai thách thức mới tìm được sự an toàn đảm bảo.
Như vậy, theo Thánh Luca, năm lời cầu xin cấu thành một toàn bộ trọn vẹn, ôm lấy hết toàn thể đời sống con người, đang bị phân rẽ giữa hạ giới và thiên thượng, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và tăm tối, giữa sự sống và sự chết.
Đó là giải pháp mà Chúa Giêsu trả lời cho môn đệ khi họ xin. ‘Lạy Thầy, xin dậy chúng con cầu nguyện’.
Cầu nguyện là một việc mà con người khó thực hiện. Vì thế phải luyện tập. Chính Thánh Gioan Tẩy giả đã dạy các đồ đệ cầu nguyện. Nhưng Giáo huấn của Chúa Kitô thật khác lạ; Chỉ bằng vài lời, đã nói lên được tất cả, một sự sung mãn phong phú qui kết vào 5 lời nguyện xin chi phối toàn bộ đời sống và hướng về Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha hết mọi người.
CẦU NGUYỆN THỰC SỰ (11, 5-13)
Trong việc dạy họ cầu nguyện, Đức Giêsu đã nói lên cái ‘cốt cách’ của việc cầu nguyện, bằng cách nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng, là sự kiên trì và tín thác.
1. Kiên trì
Dụ ngôn sau đây tỏ rõ cho thấy thế nào là kiên trì. Đây là một vài nét chính: một người kia, bổn tính không hay giúp đỡ nhưng sau cùng phải thua tính cố nài nẵng của người xin.
Lòng kiên tâm cầu nguyện cho thấy hoàn cảnh chung quanh cũng phải tuỳ thuộc và như là một chủ đề cốt tuỷ. Một người Cha trong một gia đình kia, giữa đêm trường, đang ngủ yên, cửa đóng then cài, lối vào cũng đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh; ở gian trong, cả nhà ngon giấc, hết thảy, chồng, vợ, con cái đều yên giấc. Nếu phải mở cửa, ông phải chỗi dậy, khó nhọc lắm mới thắp nổi ngọn đèn ở dưới đấu và đặt trên giá đèn, không khéo lại va vào chân đám trẻ, lấy bánh ra, mở then, mở chốt, đẩy cửa kẽo kẹt,…. Nói tắt rằng, ai nấy đều bị thức giấc, và mọi cái đều lộn xộn xáo trộn.
Như thế, ta hiểu ngay lý do tại sao ông ta từ chối. Tuy nhiên, mọi trở ngại đều bị thắng vượt, không còn nghĩ tới nghĩ lui gì nữa, chỉ còn lo sao để thoả mãn người ăn xin đang quấy nhiễu nài nỉ luôn miệng không thôi. Áp dụng vào thật quá rõ. Người van xin phải nài nỉ không biết mệt mỏi: có như thế mới được điều mình xin, cửa sẽ mở cho vào, tìm thì sẽ thấy.
Tuy nhiên, một vấn nạn khiến ta lo ngại: Tại sao Thiên Chúa lại để cho con người phải đợi chờ? Chỉ cần Ngài nhận lời là mọi trở ngại sẽ mất đi, không còn quấy nhiễu gì nữa…
Có thể giải đáp thế này: không thể đổ lỗi kỳ hạn cho Thiên Chúa, như trong dụ ngôn người cha nọ cứ để cho người xin kia phải chờ đợi cho đến khi ông ta sẵn lòng. Ở đây hẳn là không như thế, việc nhận lời có bị trì hoãn là do chính người xin, chính ông này phải biết gia tăng cầu nguyện ráo riết hơn nữa. Khẩn cầu liên lỉ liên kết người ấy với Thiên Chúa cách khắng khít hơn, khiến họ phải ý thức hơn về tình trạng bất lực riêng mình, nhận rõ hơn việc phải hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và do đó, sau khi Ngài nhận lời, người ấy sẽ nhận biết Ngài.
Việc dạy cầu nguyện bao hàm thái độ chờ đợi kiên nhẫn ấy. Chờ đợi hẳn là một đặc ân của con người. Không nên đánh giá tôn giáo như làm một việc lạ lùng, và cũng không nên coi cầu nguyện van xin như một thứ nút điện đơn giản cứ ấn xuống là được. Mà là một hành vi của ngôi vị, một sự đi sâu đầy khí lực của một thái độ trước Thiên Chúa, chiêm ngắm Ngài, tâm sự với Ngài và vươn tới Ngài.
Bởi thế, lời cầu xin -kiên trì cầu xin- phải mang một dấu hiệu nói lên ý nghĩa đạo đức đích thực.
2. Tín thác
Cái lối lý luận trên được thực hiện theo kiểu ‘huống nữa là…’ một kiểu so sánh từ cái nhỏ đến cái lớn (a minore ad majorem). Con người vốn hẹp hòi và tầm thường. Đức Giêsu quả quyết điều này: ‘Vậy nếu các ngươi là những kẻ ác…’ Tuy con người thật đê tiện, hẹp hòi, vụ lợi, và cứng lòng mà còn không chối từ, lời của người van xin, nhất nữa lại là con mình, xin bánh, cá hay trứng. Giống vật cũng chẳng làm như vậy khi cho con cái đang đói hòn đá, rắn độc hay bò cạp. Vậy nếu điều ấy khó coi đối với con người, vốn tính xấu xa, thì đối với Thiên Chúa nói làm sao đây!.
Thiên Chúa không ác độc xấu xa, nhưng đầy thiện hảo tốt lành; Ngài không hẹp hòi tư kỷ, nhưng hay thương xót. Ngài không nghiêm khắc cứng cỏi, song hiền từ lân tuất, thì Ngài càng phải nhận lời nhân loại kêu xin gấp bội phần.
Nhưng lại một vấn nạn đặt ra cho chúng ta: kinh nghiệm cho ta thấy một điều trái nghịch. Vì dù con người vẫn luôn kiên trì cầu nguyện và luôn tín thác, mà họ vẫn phải thất vọng –và thực sự thất vọng hoàn toàn!- Vì trong cuộc sống họ thấy những hy vọng được nhận lời đã tan theo mây khói: điều người ta mong tồn tại thì lại tiêu tan, cái người ta mong thành đạt thì không được thoả mãn.
Đức Giêsu trả lời như sau khiến ta khó có thể lãnh hội ý nghĩa: ‘Huống hồ Cha các ngươi tự trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người’. Ở đây ta lại gặp cái lối lý luận ‘huống nữa là…’.
Chúng ta thường xin với những ý định tầm thường quá: nào là nhu cầu thể xác, nào là mục tiêu vật chất, của cải phù vân, thậm chí còn xin cả những cái gây lầm lạc cho mình nữa.
Thiên Chúa thoả mãn ta bằng những điều thiện hảo rất cao quý; Ngài ban Thánh Thần cho ta, mà Thánh Thần Thánh hoá nội tâm. Bởi vậy, không có lời cầu xin nào bị bỏ qua mà không được nhận lời. Ta chẳng thể nhìn thấy việc Ngài nhận lời ta, như Thánh Thần thánh hoá làm sao ta thấy được.
Thực ra, khi con người nhận lấy Thánh Thần thì nhận được những sự phong phú rất cao quý chứ không phải chỉ những của cải vật chất. Vì vậy, càng cầu xin kiên trì và tín thác bao nhiêu, thì càng chất chứa đầy Thánh Thần nơi tâm hồn bấy nhiêu.
Bởi vậy hai yếu tố hoà trộn mật thiết với nhau khi cầu nguyện phải là: kiên trì và tín thác. Với hai yếu tố ấy, con người được tràn đầy Thiên Chúa, luôn thêm mãi và sâu đậm hơn. Đó mới là điều thiện hảo tối cao Thiên Chúa ban cho con người và con người nhận được cách rõ rệt.
Chúng ta không được mệt mỏi trong việc kiếm tìm, nguyện xin và gõ cửa. Và chúng ta cũng sẽ không hề biết mỏi mệt khi chúng ta hiểu được điều từ miệng Đức Giêsu thốt ra trong giờ phút sau cùng: chúng ta thuộc về Chúa.
16. Cầu nguyện
Người Hồi giáo nói về sự sốt sắng cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau:
Có một ông vua vào rừng săn bắn. Chiều xuống, khi tới giờ cầu nguyện, ông trải tấm thảm trên mặt đất, rồi hướng về phía tây và phủ phục cầu nguyện theo cung cách của người Hồi giáo.
Giữa lúc ông đang chìm đắm trong sự cầu nguyện, thì có một người đàn bà hối hả chạy vào rừng. Số là chồng bà đã ra đi từ sáng sớm mà đến giờ này vẫn chưa thấy trở về. Bà ta sợ có điều chi không lành xảy đến cho chồng nên vội chạy vào rừng để tìm kiếm. Trong cơn hốt hoảng, bà ta không nhìn thấy có người đang phủ phục cầu nguyện. Bà bước qua người ấy mà không hề hối hận để nói lên lời xin lỗi.
Nhà vua cảm thấy bị xúc phạm nặng nề, nhưng ông cũng gắng gượng để tiếp tục cầu nguyện theo đúng luật dạy. Khi ông cầu nguyện xong thì người đàn bà cũng trở lại chỗ cũ, cười nói vui vẻ bên cạnh ông chồng. Bà cuống quýt khi nhận ra rằng người mà bà đã bước qua trong cơn hốt hoảng chính là nhà vua. Nhà vua cho gọi người đàn bà đến và ra lệnh trị tội vì đã tỏ ra bất kính đối với ông.
Thế nhưng, không một chút sợ hãi, bà đã nói như sau:
- Tâu bệ hạ, thần bị cuốn hút trong sự suy nghĩ về người chồng đến độ đã không nhìn thấy bệ hạ, nên đã bước qua. Hạ thần nghĩ rằng, bệ hạ đang cầu nguyện, thì tâm trí của bệ hạ cũng phải cuốn hút trong sự suy nghĩ về Thượng đế, lẽ nào bệ hạ còn lòng trí biết đến hạ thần và những cử chỉ nhỏ nhoi của hạ thần.
Nhà vua lấy làm xấu hổ vì sự việc xảy ra. Ông nhìn nhận rằng: Tuy không phải là một bậc thầy trong đạo, nhưng người đàn bà này đã dạy cho ông về sự chuyên tâm trong việc cầu nguyện.
Trong giây phút này, khi đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ, có lẽ chúng ta cũng hành động như ông vua, có nghĩa là chúng ta chưa cuốn hút vào trong tâm tình cầu nguyện. Xác chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng tâm hồn chúng ta còn phiêu bạt tận đâu đâu. Một tiếng động nhỏ ở bên ngoài cũng đủ làm cho chúng ta chia trí. Rồi thì trong đầu óc, chúng ta mơ tưởng, chúng ta nghĩ đến hết chuyện này tới chuyện kia. Ấy là tôi chưa nói tới những người cố tình nói chuyện, chọc phá, nô giỡn, chẳng để tâm vào sự cầu nguyện một chút nào.
Giả sử như có một vị khách quí tới thăm nhà. Thế nhưng mọi người trong nhà đều bận rộn chuyện này chuyện kia, chẳng ai nói được một lời với vị khách quí ấy? Chúng ta nghĩ thế nào về thái độ này. Theo tôi, thì đó là một thái độ thiếu tế nhị, thiếu lịch sự, và chắc chắn sẽ làm cho vị khách quí buồn lòng.
Thế nhưng đối với Chúa, chúng ta lại thường xuyên cư xử như thế. Chúng ta tham dự thánh lễ, hay đọc kinh cầu nguyện cho qua lần đoạn lượt, mà chẳng có một chút tâm tình bên trong. Chính vì thế, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì sự khô khan nguội lạnh, vì sự thờ ơ sao lãng của chúng ta.
Đồng thời, như các môn đệ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện và nhất là xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện một cách chuyên tâm và sốt sắng.
17. Cầu nguyện
Khi các môn đệ đến với Thầy với lời kêu xin: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, thì các ông đã được ở với Đức Giêsu trong trường cầu nguyện một thời gian rồi, các ông đã cảm kích vì những bài học cụ thể giá trị nhất, ấy là tấm gương của chính Đấng Kitô. Nếu tâm trí của chúng ta từng nổi lên nhiều hoài nghi về thực tế và hiệu năng của lời cầu nguyện, chúng ta chỉ cần quay về với sách Tin Mừng của thánh Luca để được nhắc nhở rằng Chúa Giêsu đã dành nhiều thời giờ để cầu nguyện, và Ngài cầu nguyện ở mỗi biến động của đời sống Ngài. Chắc chắn chúng ta không lạc được khi theo bước chân Ngài.
Tuy nhiên, điều các môn đệ muốn có là một công thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy Giả hình như có cho các người theo ông. Chúa Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Lu-ca ghi lại có ngắn hơn của Mát-thêu nhưng cũng chứa đủ những điều mà chúng ta cần biết phải cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện những gì.
Lời cầu nguyện bắt đầu bằng xưng nhận Thiên Chúa là Cha. Đó là đặc tính của mọi lời Kitô hữu thưa với Chúa. Chính lời đầu tiên dạy chúng ta rằng, trong khi cầu nguyện chúng ta không đến với một Đấng phải miễn cưỡng ban ơn cho chúng ta, nhưng đến với một Cha hằng vui thích làm thoả mãn mọi nhu cầu của con cái Ngài.
Trong tiếng Do Thái, chữ “tên” hay “danh” có ý nghĩa sâu sắc hơn là tên gọi của một người. Chữ “danh” gồm tất cả các đặc tính của người mà chúng ta quen biết. Thánh vịnh 9, 11 nói: “Người nhận biết thánh danh, sẽ một niềm tin cậy.” Câu đó có ý nghĩa sâu sắc hơn chứ không chỉ biết tên Thiên Chúa Gia-vê. Nó có nghĩa là người nào thấu hiểu được tư tưởng, ý muốn và tấm lòng của Thiên Chúa sẽ vui lòng đặt hết niềm tin cậy vào Ngài.
Chúng ta nên chú ý đặc biệt đến thứ tự các lời cầu nguyện Chúa Giêsu dạy trước khi cầu xin bất cứ điều gì cho chính mình, chúng ta phải đặt Thiên Chúa, sự vinh hiển và tôn trọng của Ngài lên hàng đầu. Chỉ sau khi dành cho Chúa chỗ của Ngài, bấy giờ các điều khác mới có chỗ xứng hợp.
Bài cầu nguyện bao quát cả cuộc đời.
- Nó bao hàm các nhu cầu hiện tại. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin vật thực cho chúng ta mỗi ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại câu chuyện về Man-na trong sa mạc. Dân Chúa chỉ được lượm Man-na đủ ăn trong một ngày mà thôi. Chúng ta đừng lo cho một tương lai không rõ, nhưng ngày nào lo cho ngày ấy.
- Nó bao hàm tội lỗi đã qua. Khi cầu nguyện chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân trước sự thánh thiện của Thiên Chúa.
- Nó bao trùm các thử thách trong tương lai. Từ ngữ “cám dỗ” trong Tân Ước có nghĩa là bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. Nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm, lòng tín trung. Chúng ta không thể trốn tránh những hoàn cảnh đó, nhưng chúng ta có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban. Có người nhận định rất đúng rằng: Bài cầu nguyện Chúa Giêsu dạy – mà chúng ta gọi là kinh Lạy Cha – có hai ích lợi lớn cho giờ cầu nguyện của chúng ta. Nếu chúng ta dùng để bắt đầu giờ cầu nguyện thì nó khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp chúng ta biết cầu nguyện cho xứng đáng. Nếu chúng ta dùng để kết thúc giờ cầu nguyện thì nó tóm tắt mọi điều chúng ta phải cầu xin trước mặt Thiên Chúa.
Để khuyến khích các môn đệ trong những lời khẩn cầu ấy Ngài kể cho họ nghe câu chuyện về một người kêu xin không ngừng, hầu như là lì lợm nên đã được ban cho bánh cần dùng. Trong xứ Pa-lét-tin, khách bộ hành thường lên đường vào buổi chiều hầu tránh cái nóng bức của buổi trưa. Trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, có một người khách như vậy đã tới nhà bạn mình lúc nửa đêm. Bên Đông phương tiếp khách là bổn phận thiêng liêng. Chỉ cho khách ăn vừa đủ no thôi thì không được, cần cho khách ăn dư dật. Trong các làng quê, người ta làm bánh mì tại nhà và chỉ nướng bánh đủ ăn trong một ngày, vì nếu giữ lại, bánh sẽ cũ đi không ai muốn ăn. Vị khách nói trên đến muộn quá khiến chủ nhà bối rối vì thức ăn đã hết nhẵn, chủ nhà không thể làm tròn bổn phận thiêng liêng là tiếp khách. Và dầu đêm đã khuya, chủ nhà cũng tới nhà bạn để vay bánh. Cửa nhà người bạn đã đóng. Bên Đông phương, không ai muốn gõ cửa nhà đã đóng, trừ khi cấp bách lắm. Buổi sáng cửa nhà được mở ra và cứ mở suốt ngày, nhưng nếu cửa đóng lại, đó là dấu chủ nhà không muốn bị quấy rầy. Nhưng người chủ nhà đi tìm bánh đã không e ngại ông gõ cửa và cứ gõ mãi…
Căn nhà nghèo ở xứ Pa-lét-tin chỉ có một căn phòng với một cửa sổ nhỏ. Nền nhà làm bằng đất nện phủ tre khô và cành khô. Căn phòng chia làm hai phần, không phải bằng vách ngăn mà bằng mặt đất thấp hơn. Hai phần ba phòng thì nền đất thấp, phần ba kia thì nền cao hơn một chút. Trên phần đất cao đó có bếp than ủ cháy suốt đêm, và cả gia đình nằm ngủ quanh bếp đó, họ không nằm nơi giường cao, nhưng trên những tấm chiếu. Các gia đình thường đông người và họ thường nằm sát nhau cho ấm. Khi một người trỗi dậy thì tất nhiên làm phiền cả gia đình. Hơn nữa, tại làng quê, buổi tối người ta đem gia súc, gà, dê vào trong nhà. Không lạ gì, trong hoàn cảnh đó, một người đã đi ngủ thì không muốn dậy nữa. Nhưng người vay bánh quyết tâm này cứ gõ mãi, “gõ mãi mà không biết xấu hổ” theo đúng nghĩa của từ ngữ Hy-lạp được dùng – cho tới khi chủ nhà đành chỗi dậy cho người kia mọi điều xin, vì dầu sao gia đình cũng bị quấy rầy rồi. Chúa Giêsu có ý bảo: “Câu chuyện này dạy các ngươi về việc cầu nguyện.” Bài học trong dụ ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ phải đập vào cửa Thiên Chúa cho đến khi ép buộc Ngài cực chẳng đã phải ban cho chúng ta điều chúng ta muốn, cho đến khi chúng ta cưỡng ép được Thiên Chúa không sẵn lòng chịu trả lời cho chúng ta, một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc. Chúa Giêsu ngụ ý như sau: “Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện chí mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi quyết tâm của một người bạn trì chí, để phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Thiên Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào! Chúa Giêsu phán: “Nếu các ngươi vốn xấu mà còn biết rằng mình có bổn phận cung cấp nhu cầu cho con cái, huống chi Cha trên trời…”
Điều này không làm cho chúng ta giảm bớt sự hăng say và sốt sắng cầu nguyện. Dầu sao chúng ta chỉ có thể tỏ lòng ước muốn thành thực bởi sốt sắng và kiên trì cầu nguyện. Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải giành giật các ơn phúc từ tay một Thiên Chúa không thiện chí, nhưng chúng ta đến với một Đấng biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta hơn chính chúng ta, và Ngài là Đấng có lòng yêu thương và rộng rãi đối với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, không phải vì Thiên Chúa không sẵn lòng ban ơn cho ta, nhưng vì Ngài có ơn phúc tốt hơn, để dành cho chúng ta. Và không hề có vấn đề mà chúng ta gọi là lời cầu nguyện không được nhận. Sự trả lời của Chúa có thể không đúng theo điều chúng ta ước muốn hoặc trông đợi, dầu khi Chúa từ chối điều mong muốn của ta, thì đó vẫn là sự trả lời bởi tình thương và khôn ngoan của chính Thiên Chúa là Cha Từ Ái.
Để kết luận chúng ta ghi lại đây tâm sự của tướng Douglas Mac Arthur: “Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc lời kinh nguyện đơn sơ hàng ngày: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng… Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…”
Nguồn"Giaophanvinh.net"