2 Ảnh

8.6.13

Thiên Chúa nói với chúng ta này con "Hãy trỗi dậy"

Chúa Nhật X Thường niên (C): Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
Các bài đọc và đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cho chúng ta hiểu lòng thương xót của Chúa. Chính vì lòng nhân từ thương xót của Ngài mà Chúa đã được sai đến trần gian để yêu thương và cứu độ nhân loại, cứu thoát con người.Tuyệt đỉnh của việc viếng thăm dân là cái chết trên thập giá. Đây là mặc khải tuyệt đỉnh của lòng thương xót Chúa.Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã để ý đến những vấn đề của con người: sinh, bệnh, lão, tử.Đứa con của bà góa đã sinh ra, đã bệnh và đã chết. Chúa đã yêu thương, can thiệp vào những vấn đề thực tế như thế để cho nhân loại hiểu: Chúa có quyền trên sự sống và sự chết.


Chúa Nhật X Thường niên - Năm C

Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa

Lời Chúa: 1V 17, 17-24; Gl 1,11-19; Lc 7,11-17

****************

Tin Mừng Lc 7,11-17        

Một hôm, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.

1. Naim

Phúc Âm kể lại rằng: Chúa Giêsu thổn thức xót thương cho người mẹ đang than khóc trước cái chết của đứa con trai duy nhất. Và rồi Ngài đã làm phép lạ cho đứa con trai ấy được sống lại trước sự ngạc nhiên và thán phục của mọi người. Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là bài học chúng ta tìm thấy được qua sự kiện vừa nghe?

Chàng trai được đem đi chôn là hình ảnh tượng trưng cho tất cả những ai đã chết đi cho đời sống ơn sủng, do những tội lỗi mình vấp phạm. Thánh Gioan Kim Khẩu đã diễn tả về họ như sau: Mặc dù không bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, mặc dù không bị giòi bọ rút tỉa thân xác, nhưng tâm hồn họ thực sự đã chết và còn tệ hơn thế nữa là đàng khác, bởi vì tâm hồn họ đã bị những đam mê dục vọng sai quấy làm nhàu nát.

Còn người mẹ than khóc đứa con của mình là hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Đúng thế Giáo Hội luôn than khóc những đứa con bất hạnh của mình. Ngày cũng như đêm, Giáo Hội không ngừng cầu nguyện cho họ biết trỗi dậy trở về cùng Chúa, bởi vì Giáo Hội biết rằng con đường họ đang đi sẽ dẫn họ tới chốn diệt vong.

Hoàn cảnh khiến chàng thanh niên được cứu sống cũng chính là cách thức Chúa thường dùng để hoán cải các tội nhân. Chúa Giêsu đến gần người chết cũng như các tội nhân. Ngài có hàng ngàn cách thức để nói với họ, hầu thức tỉnh họ. Có thể đó là một bài giảng cảm động. Có thể đó là một trang sách vô tình họ đọc được. Có thể đó là một mẫu gương của một người đạo đức thánh thiện. Có thể đó là cái chết của một người thân yêu, hay một tai ương bất ngờ xảy đến, làm đảo ngược những dự tính của họ. Điều quan trọng là tâm hồn họ không chai lì để nhận ra tiếng nói của Chúa.

Phúc Âm còn kể tiếp: Bấy giờ Chúa Giêsu đụng tới quan tài và những người khiêng đứng lại. Các thánh giáo phụ thì nghĩ rằng những người khiêng là những đam mê dục vọng xấu xa, làm cho con tim trở nên mù loà và dẫn đưa chúng ta tới cái chết. Đó là những thói hư tật xấu làm cho chúng ta trở thành nô lệ cho ma quỷ. Để được giải thoát, chúng ta phải biết chạy đến cùng Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể bẻ gẫy xiềng xích và phá tan gông cùm của tội lỗi. Ngài sẽ cứu giúp chúng ta vì Ngài không muốn kẻ tội lỗi phải chết nhưng muốn họ ăn năn và được sống. Chính Ngài sẽ đi bước trước đến các tội nhân. Chính ngài đã phán với chúng ta: Một người tội lỗi ăn năn hối cải sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.

Rồi Chúa Giêsu nói với người đã chết: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy trỗi dậy. Lập tức chàng trai trỗi dậy và Chúa Giêsu trao chàng cho người mẹ. Chúa Giêsu cũng nói với người đã chết đi vì tội lỗi như vậy: Hỡi người ngủ mê hãy trỗi dậy. Hỡi kẻ còn ngồi trong bóng tối sự chết hãy chỗ dậy. Chúa Giêsu sẽ tha thứ và sẽ rửa sạch mọi dấu vết tội lỗi bằng máu thánh của Ngài. Hãy trỗi dậy. Đức Kitô sẽ chiếu sáng và mặc cho ngươi tấm áo cưới và đem lại cho ngươi niềm vui mừng đã mất. Thế nhưng là những kẻ tội lỗi chúng ta đã thực sự nghe thấy tiếng gọi của Chúa và đã trỗi dậy, lên đường trở về với Ngài hay chưa?

2. Thiên Chúa đã viếng thăm dân của Người

(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Tiên tri Êlya đã làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Đức Giêsu Kitô cũng đã làm phục sinh người thanh niên con bà góa thành Naim. Nhưng hai câu chuyện, hai cách thức làm cho kẻ chết sống lại khác nhau làm sao!

Tuy nhiên phụng vụ Lời Chúa hôm nay không muốn so sánh Êlya với Đức Giêsu. Phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về mặt đạo đức. Và bài học của phụng vụ nằm trong cả ba bài đọc. Không tất nhiên ba bài Kinh Thánh đều nói lên một ý; nhưng đọc kỹ chúng ta vẫn có thể nhận ra một chủ đề nào đó với nhiều ý tưởng phụ xoay quanh. Chủ đề ấy chúng ta sẽ dễ thấy nổi lên sau khi đọc lại các bài Kinh Thánh vừa nghe.

1) Tôi biết là Người Của Thiên Chúa

Bài sách Các Vua thuật lại một câu chuyện trong cuộc đời của tiên tri Êlya. Chúng ta chẳng có một sách tiểu sử đầy đủ nào về nhà tiên tri này. Sách Các Vua quyển I kể nhiều chuyện về ông. Nhưng đó là những “mẩu” chuyển rời rạc không dính vào nhau để làm thành một cuốn tiểu sử. Câu chuyện hôm nay chẳng hạn. Người ta thường gọi là chuyện Êlya làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Nhưng như chúng ta vừa nghe, chẳng có chữ nào trong bài kể hôm nay nói rằng bà góa ấy ở thành Sarepta. Chỉ vì trước đó sách Các Vua kể rằng Êlya theo lệnh Chúa đi đến Sarepta và lưu lại ở đó. Ông đã gặp một bà góa đi mót củi. Ông xin bà cho bánh ăn và nước uống. Và bà ta có một đứa con. Tuy nhiên chẳng có gì chắc chắn khiến người ta có thể bảo bà góa con côi ấy cũng chính là mẹ góa con côi trong chuyện này. Ngược lại, chỉ cần lưu ý ít nhiều đến danh từ và cách kể, người ta thấy đây là hai chuyện khác nhau. Bà góa đi mót củi ở Sarepta không phải là “bà chủ nhà” trong câu chuyện này. Tiếng “bà chủ nhà” khiến người ta phải nghĩ đến một mệnh phụ quí phái hơn người đàn bà đi mót củi. Và nhất là cuộc đối thoại giữa bà chủ nhà với nhà tiên tri trong câu chuyện hôm nay cho thấy giữa hai người dường như chưa hiểu nhau. Đang khi bà góa ở Sarepta đã hiểu biết nhà tiên tri rồi.

Đằng khác, ai hiểu biết Kinh Thánh có thể nhận ra ngay rằng câu chuyện kể trong sách Các Vua quyển II về tiên tri Êlya. Ông này cũng làm cho con một bà lớn ở Shumen sống lại. Do đó có người nghĩ câu chuyện kể hôm nay đã được môn đồ của Êlya viết thêm vào cuộc đời của Êlya làm cho nhà tiên tri này sáng giá hơn.

Quả thật, dường như đây là mục đích của chính bài tường thuật hôm nay. Người muốn viết cho mọi người biết Êlya là người của Thiên Chúa. Thoạt tiên bà góa kia cũng như hầu hết các người đồng thời không biết như vậy. Họ thấy Êlya là người khác thường. Họ biết ông có một nhiệt tình lạ lùng đối với Giavê. Luôn luôn ông kêu gọi người ta sống trung thành với giao ước và đừng thờ một thần nào khác ngoài Giavê. Lắm lúc ông đe dọa người ta những hình phạt khủng khiếp. Kể cả vua Israen thời bấy giờ. Nhà vua tránh né Êlya chỉ sợ gặp lại phải nghe các đòi hỏi của Thiên Chúa và các hình phạt theo sau nếu nhà vua không đáp ứng những đòi hỏi kia.

Do đó người ta sợ Êlya hơn là muốn nghe theo ông. Người ta chưa chắc ông là người của Thiên Chúa. Nói đúng hơn, vì yếu đuối và sợ các đòi hỏi của tôn giáo chân thật, người ta chưa muốn công nhận ông là người của Thiên Chúa.

Chính vì Êlya khiến người ta sợ hơn là lôi cuốn được hạ theo mình, nên khi Êlya ở tại nhà bà góa kia mà con bà bị bệnh chết, thì bà ta đã đổ tội cho nhà tiên tri. Bà nói: Ngài và tôi có việc gì (với nhau) mà ngài lại đến tôi để hạch tội tôi và làm con tôi chết? Nhà tiên tri bị buộc tội như vậy chẳng biết làm gì hơn để giải oan là xin lấy xác đứa con để làm sao cho nó sống lại.

Chúng ta thấy ông nằm dài trên đứa trẻ ba lần, khác nào như làm phù phép. Nhưng rõ ràng không phải cử chỉ và hành động này đã làm cho đứa trẻ sống lại, nhưng là lời Êlya cầu nguyện xin Thiên Chúa cho hồn vía đứa trẻ trở về lại mình nó. Chính lời cầu nguyện này đã kéo Êlya ra khỏi cảnh lúng túng và đem sự kiện lạ lùng này mà bà chủ nhà cũng như mọi người sẽ nghe biết chuyện mới thấy rõ Thiên Chúa ở với Êlya và ông thật là người của Thiên Chúa.

Do đó câu chuyện này xảy ra để giúp Êlya. Chủ ý của người viết là làm sáng giá cho nhà tiên tri. Tuy nhiên câu chuyện cũng dạy dân Do Thái một bài học: Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Và chết chưa phải là hết. Nếu người ta tin vào Chúa và biết cầu xin với Người thì Người có thể làm cho con người sống lại. Một niềm tin như thế đòi hỏi ta phải biết sống như thế sẽ có sự phục sinh. Ai không thấy đó là một mạc khải lớn lao và đầy hy vọng cho con người, nhất là ở thời xa xôi và tại những nơi chưa có lời giảng dạy chắc chắn nào về đời sau. Riêng đối với chúng ta, cần nhờ câu chuyện trong bài sách Các Vua hôm nay để hiểu hơn về bài Tin Mừng trong thánh lễ này.

2) Thiên Chúa đã viếng thăm Dân Của Người

Người ta có thể nói tác giả Luca đã vay muộn một số nét của bài kể trong sách Các Vua. Nhưng những điểm dị đồng đáng để ý hơn nhiều, nhất là chủ ý của hai tác giả rất khác nhau.

Luca thuật lại một câu chuyện đã xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, có đông đảo dân chúng chứng kiến, đang khi bài sách Các Vua chỉ tường thuật việc xảy ra trong nhà một mẹ góa con côi. Và như vậy có thể nói một việc đã xảy ra có hệ đến toàn dân, còn việc kia chỉ liên quan đến một gia đình, nếu không muốn nói là một người. Chúng ta hãy tạm bỏ câu chuyện xưa xảy ra thời Êlya, để chú ý đến việc xảy ra dưới thời Chúa Giêsu mà Luca đã thuật lại để nói rằng nó rất có hệ đến chúng ta thời bây giờ.

Hôm ấy Đức Giêsu đi với môn đồ và đông đảo quần chúng đến một thành gọi là Naim. Người đi vào xã hội loài người vì theo Kinh Thánh “thành” là nơi loài người sinh sống. Và “thành” mà không có Chúa thường được ví như một góa phụ. Hơn nữa “bà góa” ấy không nuôi nổi con mình. Cố gắng của loài người không có thể làm cho con người được sống thật và sống đời đời.

Do đó khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì này người ta đang khiêng đi chôn đứa con gái của bà góa. Thật là não nuột. Có một đứa con mà bà góa vẫn không giữ được. Xã hội loài người cũng bất lực bó tay. Dân chúng trong thành chỉ biết đi chôn đứa con với bà.

Người thường, nếu nhìn thấy cũng chỉ biết cảm thông. Đức Giêsu thì khác, Người đi vào thế gian là để cứu sống nên tác giả Luca viết: “Chúa chạnh lòng thương”. Lần đầu tiên trong tác phẩm của ông, Luca xưng Đức Giêsu là “Chúa”. Từ ngữ này, các tác giả Tân Ước chỉ dùng để nói về Người sau khi Người đã sống lại. Luca còn dùng kiểu nói “chạnh lòng thương” là kiểu nói chỉ dùng để nói về chính Thiên Chúa khi Người muốn biểu lộ tình thương cứu độ đối với dân Người. Như vậy trong câu nói vắn tắt kia, Luca đã nhìn thấy nơi Đức Giêsu, chính Thiên Chúa đang muốn tỏ lòng thương cứu độ nhân loại khổ sở nằm chết trong tội lỗi. Hơn nữa tác giả còn ngầm ý bảo rằng: nơi Đức Giêsu có sự phục sinh.

Thật vậy, ở đây Đức Giêsu không cầu nguyện như Êlya. Người bảo bà góa đừng khóc lóc nữa. Người đụng đến quan tài. Các kẻ khiêng đứng lại tức khắc. Sao Người uy quyền như vậy? Người ta đã tin ở Người rồi, vì nếu không, các kẻ kia không dễ vâng lời như thế. Rồi Người truyền lệnh: “Thanh niên! Ta bảo ngươi hãy trỗi dậy”. Và người chết ngồi chồm dậy và lên tiếng nói, (để làm chứng đã sống lại thật).

Phản ứng của mọi người là kinh sợ trước quyền và công việc Thiên Chúa. Thiên Chúa đang ở trước mặt họ. Người vừa cho họ thấy một biểu dương uy quyền của Người. Bà góa thành Sarepta thấy Êlya cầu nguyện mà làm cho con bà sống lại, thì nhận ra Êlya là người của Thiên Chúa nên được Chúa nhận lời, còn ở đây người ta thấy sự sống lại do chính Đức Giêsu mà đến, nên Người là một tiên tri cao cả, và đúng hơn, Người là chính Thiên Chúa cứu độ mà loài người chết trong tội lỗi đang chờ đợi.

Do đó như các bài sách Các Vua đã muốn chứng tỏ Êlya là người của Thiên Chúa, thì bài Tin Mừng Luca muốn làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Nơi Người có sự phục sinh để làm cho loài người sống lại, nên Người là vị tiên tri cao cả và là Thiên Chúa đến viếng thăm dân của Người. Chúng ta hãy tin vào sức mạnh cứu độ của Người. Và điều này bài thư Phaolô cũng muốn làm chứng.

3. Thiên Chúa đã mạc khải Con của Người trong tôi

Quả vậy, Phaolô viết thư cho người Galát để ít ra trong đoạn trích hôm nay – Xác minh mình là tông đồ chân chính. Trước đây người Galát vẫn tin như vậy. Nhưng nay có mấy người Do Thái đến đặt điều vu khống và dèm pha uy tín của người, để lôi kéo người Galát trở về với những tập tục Do Thái là cắt bì và giữ luật Môsê. Họ nói rằng Phaolô đã không được đặt làm tông đồ. Người đã làm việc tự ý. Tin Mừng người rao giảng không đáng tin.

Phaolô phản kháng mạnh mẽ. Trong đoạn văn này. Người khẳng định chính Thiên Chúa đặt người làm tông đồ, khi mạc khải Đức Giêsu Kitô cho người. Quả vậy, xưa người không như thế. Người cũng chỉ biết đạo Do Thái và chỉ hơn đồng đạo ở điểm hăng say phục vụ.người đã tình nguyện đi bắt bớ và ra công triệt hạ Hội Thánh của Thiên Chúa. Tại đâu người đã thay đổi ra như ngày nay? Chính nhờ Thiên Chúa đã tách người ra ngay từ lòng mẹ và kêu gọi người. Phaolô ý thức ơn người đã được là do lòng thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã tuyển chọn và kêu gọi người như Giêrêmia ở đây để nói lên niềm tin ấy. Hơn nữa khi kêu gọi người, Thiên Chúa đã không mạc khải một sứ điệp, hoặc một sứ mệnh, như trong trường hợp các tiên tri. Thiên Chúa cho Phaolô biết Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, để từ nay người phải rao giảng Ngài.

Do đó Phaolô không cần học với một ai. Chính Thiên Chúa đã dạy Phaolô biết Chúa Giêsu, biết tất cả các chân lý về Ngài và mọi điều phải rao giảng về Ngài. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác không cần thiết tuyệt đối theo nghĩa Phaolô phải cần học hỏi thêm với các ngài. Khi đã nhận được mạc khải của Đức Giêsu Kitô và được đặt làm tông đồ rồi, người ta muốn nắm vững các chân lý của đạo. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác chỉ có ý nghĩa hiệp thông, duy nhất. Và nếu nó có làm giàu thêm cho kho tàng mạc khải mà mỗi người đã lãnh nhận, thì cũng chỉ là một sự soi sáng thêm để đi sâu hơn vào chân lý mà thôi. Phaolô không những được quyền lợi và vinh dự như mọi tông đồ; nhưng vì đã được mạc khải một cách đặc biệt và độc đáo, người còn xứng đáng được tôn vinh như một tông đồ độc hạng và kiệt xuất. Và được như vậy, một lần nữa người ta nên biết, là tự người đã được ơn hiểu biết Chúa Giêsu Kitô một cách phi thường. Do đó, hiểu biết Chúa Giêsu Kitô là điều quan trọng và quan trọng hơn hết. Bài Tin Mừng đã muốn làm cho người ta được sự hiểu biết này. Bài thư Phaolô làm chứng khi sự hiểu biết này sâu sắc đặc biệt, thì người ta cũng được chọn một cách đặc biệt. Vinh dự và hạnh phúc của người ta vượt xa sự sung sướng của bà góa thành Sarepta khi hiểu biết tiên tri Êlya.

Chúng ta tự nhiên muốn được sự hiểu biết này. Hội Thánh muốn giúp đỡ chúng ta không ngừng. Đặc biệt trong các thánh lễ. Phụng vụ Lời Chúa là một mạc khải liên tục về Chúa Giêsu Kitô. Và nhất là Bí tích cử hành nơi bàn thờ. Tại đây Chúa Giêsu Kitô không muốn cho chúng ta gặp Người như Phaolô trên đường Đamas sao? Chúng ta phải nói còn hơn thế nữa. Chúng ta sẽ lãnh nhận chính mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là chính mầu nhiệm của Người, là chính mầu nhiệm biểu lộ Người hoàn toàn và đầy đủ hơn hết. Người không những là Đấng Tiên Tri của Thiên Chúa, nhưng còn là chính Con Thiên Chúa sinh ra làm người để tha thứ tội lỗi và làm cho chúng ta được sống lại và sống sự sống mới. Chúng ta hãy có lòng tin yêu để đón nhận và để sống sự sống của Chúa Giêsu Kitô.

3. Sự thương xót của Chúa sự sống

(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Thánh Luca, vị tông đồ viết Phúc Âm đã nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay là một gương mẫu mạnh nhất, lớn nhất cho việc nhấn mạnh này.

Việc cho đứa con bà góa sống lại, Chúa Giêsu đã chứng tỏ rằng Ngài là Chúa của sự sống, nhưng trong tâm trí của Thánh Luca câu chuyện này thì không hoàn toàn đặt trọng tâm rõ ràng vào người góa phụ, trong đó nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu.

Hầu hết những góa phụ vào thời của Chúa Giêsu thì sống rất khó khăn. Và không có sự giúp đỡ của nhà nước: không có tiền trợ cấp, không có lương hưu, không có bảo hiểm xã hội, nói chung chỉ là những người nghèo, nếu không có việc làm. Khi Chúa Giêsu nhìn vào đoàn người đám tang trong Phúc Âm ngày hôm nay. Chúng ta có thể giả thiết rằng, một người nào đó đã thông báo cho Chúa Giêsu về trường hợp bà góa này đang chôn đứa con độc nhất của bà.

Thánh Luca đã quan sát Chúa Giêsu, thấy Ngài xúc động và động lòng thương khi nhìn thấy bà. Cảm tình của Người đã đi trực tiếp đến người đàn bà không phải là do cái chết của đứa con. Chúa Giêsu hiểu rằng thời gian khó khăn nhất của người góa phụ thì không phải bây giờ nhưng là sau đó, khi chôn cất xong bà sẽ trở về lại một mình trong căn nhà trống rỗng. Chúa Giêsu nhận thấy rằng sự đau thương của bà thì rất sâu thẳm bởi vì sợ về tương lai và bà cũng có thể khó mà sống sót được. Lúc ấy, trong tâm trí Chúa Giêsu có thể nhìn thấy người góa phụ khác trong năm tới, hoặc sau cuộc đóng đinh đi theo thân xác vô hồn của đứa con độc nhất của bà đề tới ngôi mộ. Ngài đã nói với người góa phụ “Đừng khóc nữa”. Từ chúng ta, những lời này sẽ vang lên một cách trống rỗng nhưng từ nơi Người chúng đã đem lại sự an ủi và niềm hy vọng. Chúa Giêsu đã nói những lời thương xót như thế cho người góa phụ như cho chính Mẹ Người.

Chúa Giêsu đã đụng đến cái cáng và chạm đến thân xác của người chết. Người khiêng cáng đã ý thức được Chúa Giêsu muốn cho họ dừng lại, người đàn bà chờ đợi một điều gì đó sắp sửa xảy ra và những gì Chúa Giêsu sẽ làm. Tiếp đó, bà nghe những lời đầy thương xót cũng như quyền năng: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy trỗi dậy”. Mọi đôi mắt đều hướng về người chết. Anh ta ngồi dây và bắt đầu nói. Đó không phải là giả tưởng. Sau cùng lòng thương xót của Chúa Giêsu là cho người góa phụ, Thánh Luca đã cẩn thận thêm: “Chúa Giêsu đã trao anh lại cho mẹ anh”.

Thánh Phaolô ngày hôm nay chú ý đến đặc ân ngài đã được Thiên Chúa mặc khải Con của Người cho ngài để ngài có thể rao truyền Tin Mừng cứu độ. Và đặc ân đó cho cả chúng ta nữa, qua bài Phúc Âm này theo Thánh Luca, chúng ta cũng đã được mặc khải cho Tin Mừng tình yêu của Chúa. Vị Chúa này đã Phục Sinh chúng ta từ cõi chết tội lỗi và giới thiệu chúng ta đến với mẹ thiêng liêng của chúng ta là Giáo Hội, người mẹ đó giờ đây đang nuôi dưỡng chúng ta xuyên qua những lời Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể.

Hãy chú ý đến sự khác nhau giữa những gì tiên tri Êlisa đã làm và những gì Chúa Giêsu đã làm. Cả hai đối đầu với sự chết. Êlisa đã kêu cầu Chúa và cầu nguyện rằng: “Xin Ngài phục hồi sự sống cho đứa con của người đàn bà, còn Chúa Giêsu đã nói nhân danh Chúa và bởi quyền lực của chính mình. Ngài đã nói những lời rất quyền năng. Êlisa thật sự là một tiên tri của Thiên Chúa nhưng còn Chúa Giêsu chính Chúa của sự sống”. Chúng ta khâm phục và tôn kính vị tiên tri nhưng đối với Chúa Giêsu chúng ta lại kêu lên như trong lời tuyên xưng trong Thánh Lễ của chúng ta: “Bằng sự chết, Người đã phá hủy sự chết của chúng ta. Bằng việc sống lại Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta”.

Tất cả chúng ta một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa là Chúa của sự sống nhân lành.

4. Lòng tin nơi dân – R. Gutzwiller

Việc Chúa Giêsu chỉ tỏ ý muốn, là người đầy tớ viên sĩ quan được chữa lành trong Tin Mừng Luca 7,1-10 là một dấu chứng nói lên uy quyền của Thiên Chúa. Còn ở đây là trường hợp phải đương đầu với một hoàn cảnh thực tuyệt vọng. Một cậu con trai đã chết. Chàng là con độc nhất của người mẹ goá. Cái chết cắt đứt mọi mối dây liên hệ và thật vô phương cứu chữa. Bà mẹ lẽo đẽo bước theo sau quan tài lòng đau như cắt, không còn nghĩ gì hơn được, hy vọng gì hơn được… Đám đông cứ tiến hành việc chôn cất, nào ai có thể làm chi hơn được? Ngay cả các môn đệ, họ chẳng hề nghĩ tới việc cầu cứu Chúa Giêsu: vì một người đã chết không phải như một cây đã trụi hết lá mà như một cây đã bị bứng cả gốc rễ. Vô phương cầu cứu.

Thế nên, chính Chúa Giêsu đã đưa sáng kiến, đã đi bước đầu. Ngài chạnh lòng thương, nghĩa là Ngài cũng khổ với ai cùng khổ. Nên Ngài ra tay cứu chữa.

Viên sĩ quan đã cậy vào quyền truyền khiến của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cũng dùng thứ quyền ấy. Ngài ra lệnh cho kẻ chết: ‘Ta bảo ngươi hãy trỗi dậy!’. Một giọng điệu đầy dũng lực, quyền uy. ‘Ta bảo người!’, Ngài không cầu cứu ai, không xin với Cha trên trời, nhưng phán quyết nhân danh chính mình, ra lệnh theo ý mình và quyền mình. Chỉ một lời nói, một mệnh lệnh đơn giản: ‘Hãy trỗi dậy!’ là kẻ chết được phục hồi sức sống.

Phép lạ phục sinh kẻ chết này lạ lùng quá, đến độ mọi người đứng đấy đều phát kinh hãi: ‘Mọi người đều sợ hãi’. Họ đã tin, và họ tôn vinh Thiên Chúa; họ công-nhận-Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người, vì Ngài đã làm nên muôn việc kỳ diệu trong dân Israel, nói lên quyền năng của Ngài. Nhưng lòng tin của họ còn khiếm khuyết. Một niềm tin chưa chạm trán với những vấn đề cốt thiết. Nó chỉ nhá nhem niềm xác tín: ‘Một tiên tri cao cả đã trỗi dậy giữa chúng ta’.

‘Dân Do thái chưa hề nhận biết thần tính nơi Chúa Giêsu và thua cả niềm tin của viên sĩ quan. Nếu Ngài chỉ là một tiên tri cao cả thôi, thì Ngài đã chẳng chu toàn điều cốt thiết nhất. Và như thế, mọi chuyện vẫn nằm trong kế hoạch bình thường của Israel, tức là thỉnh thoảng lại xuất hiện nơi Israel các vị tiên tri.

Đó chỉ là việc lập lại mà chẳng có gì mới, nghĩa là một sự nối dài dòng dõi tiên tri thôi. Trong trường hợp đó, Thiên Chúa không đích thân trực tiếp đến viếng thăm dân Người mà vẫn chỉ như xưa, là sai vị sứ giả và nhờ vị trung gian này, Ngài mới cứu giúp dân Người.

Trong khi ở đây, với Chúa Giêsu, trên thực tế, một sự mới mẻ thực sự được thể hiện; thế là chấm dứt mọi quá khứ, khởi đầu một cái gì hoàn toàn khác biệt. Quả thực, dân Do thái có lòng tin, nhưng lòng tin ấy chưa chân xác lắm. Họ có tôn vinh Thiên Chúa, nhưng chưa tôn vinh sự cao cả vô biên của Thiên Chúa. Thì đây, việc phục sinh kẻ chết phải đoan chứng cho họ thấy một sự sống mới bắt đầu tỏ lộ, vì chủ của sự sống và sự chết đang ở giữa họ.

Từ đây, không còn là vấn đề một mắt xích mới tiếp nối trong giây xích, một trang sử mới tiếp nối trong lịch sử dân Do thái nữa, mà là một đầu mối khác hoàn toàn mới mẻ. Đó là: việc phục sinh kẻ chết và bắt đầu một đời sống mới.

5. Chúa thương dân khổ – Lm. ViKiNi

(Trích dẫn từ ‘Xây Nhà Trên Đá’)

Nhiều gia đình buồn tủi vì không con trai, như gia đình ông bà kia nói: “Vợ chồng chúng tôi sinh chín con gái mà chưa có con trai. Ngày tết năm Giáp Dần (tháng 02/1974) nhân dịp tới Trung Chánh, chúng tôi đến khấn tại đền Thánh Giuse Mỹ Hòa. Chín tháng sau nhờ lời cầu bầu của Thánh cả, chúng tôi sinh được một con trai ngày mồng 08 tháng 10 năm 1974. Chúng tôi đặt tên thánh cháu là Giuse để trọn đời nhớ ơn ông thánh” (Châu Thủy: Thánh Giuse trong Phúc Âm 1974 trg. 19-20)

Được có con trai vui mừng biết mấy! Nhưng nếu con trai duy nhất đó chết thì khốn khổ đến chừng nào!

Bà góa trong Tin Mừng hôm nay đã đau khổ gấp đôi vì chồng đã chết rồi, nay con trai duy nhất còn lại cũng chết theo. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho các phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà được bảo lãnh về bản thân và tài sản, bà sống như kẻ bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn biệt con của bà. Một đám dân rất đông khác đang tiến về thành Naim đã gặp đám tang con bà tại cửa thành. Một đám vui vẻ như ngày hội, một đám buồn sầu tang tóc. Đám đông vui vẻ ồn ào đã im bặt, họ xì xèo rỉ tai nhau, tin tức về bà góa có con trai duy nhất chết làm mọi người cảm thương tội nghiệp. Một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Người đó là Đức Giêsu. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy thương xót những hạng người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã mủi lòng xót thương, khẽ an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”

Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xẩy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Mãi thời Vua Achab (874-853 A.C) mới xẩy ra hai lần người chết sống lại, một lần ngôn sứ Êlia cho bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó. Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại”. (1V. 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Shunem (Su-nem) và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại … Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35). Thời các tông đồ ở thành Trôa, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại, thánh Luca kể: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv. 20, 7-12)

Người ta kinh ngạc về cái chết phần xác được sống lại, thì càng phải kinh ngạc biết chừng nào khi được Chúa cho sống lại về cái chết phần hồn. Chết phần hồn là những cái chết của những kẻ lao đầu vào chốn nghiện ngập ma túy, cờ bạc, rượu chè, chơi bời trác táng, có những kẻ chết vì cuộc đời đen tối tuyệt vọng không lối thoát, có những kẻ chết vì tham ô móc ngoặc gian dối bất công. Có những kẻ chết vì khủng hoảng tiền của, danh vọng, địa vị, và hàng trăm thứ chết như vậy nữa. Những hạng người này khó thấy mình sầu khổ trong lúc chết. Chỉ khi nào họ thoát ra khỏi những mê hồn trận đó, họ mới thấy rùng rợn sợ hãi cho quãng đời quá khứ của họ. Họ chẳng khác gì kẻ nghiện ma túy nhờ cai nghiện được khỏi, lúc đó họ mới thấy sợ. Tất cả những cái chết tinh thần như thế đều được Chúa thương cứu sống họ trong phép Giải tội. Và thật lạ lùng, họ càng chết bao nhiêu lần thì Chúa sẽ cho họ sống lại bấy nhiêu lần. Lòng thương xót của Chúa không ai hiểu thấu.

Còn một cái chết thứ ba nữa là chết cả xác cả hồn: Cái chết này thật rùng rợn kinh khủng vì chẳng bao giờ Thiên Chúa cứu sống nó được nữa. Nó chết đời đời. Nó đã tự chọn cái chết đó, vì nó cố chấp chết trong tội lỗi như Giuđa. Trước khi Giuđa đi thắt cổ, Đức Giêsu vẫn gọi nó là bạn thân thiết. Nó đã từ chối và lao mình vào cái chết đời đời.

Lạy Chúa, Chúa đã thương cứu chữa bao nhiêu người khốn khổ. Con là kẻ khổ nhất, xin Chúa cứu chữa xác hồn con được sống lại với Chúa. Đừng để con phải chết cả hồn lẫn xác đời đời trong ngày kinh khủng ấy.
Thiên Chúa nói với chúng ta này con "Hãy trỗi dậy"
  • Blogger Comments
  • Facebook Comments
Top