2 Ảnh

2.6.13

Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô

Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô (C): Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
Chúng ta có thể nói, mừng lễ kính Mình Máu Chúa hôm nay như là ôn lại một kinh nghiệm gia đình, kinh nghiệm đại gia đình Giáo Hội của chúng ta. Bí tích Thánh Thể là trung tâm trong đời sống của mỗi người chúng ta cũng như là trung tâm của sinh hoạt Giáo Hội. Mỗi người chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội đều được mời gọi ôn lại kinh nghiệm gia đình mà Chúa Giêsu đã thực hiện với các tông đồ ngày xưa, Ngài mời gọi các tông đồ hãy cộng tác với Ngài để cho đi, cho đi chính Ngài, cho đi chính bản thân của họ. Mỗi người chúng ta hôm nay cử hành lễ Mình Thánh Chúa, chúng ta cũng được mời gọi cho đi chính mình như Chúa đã cho đi. Chúng ta tôn thờ sự hiện diện của Chúa không đủ, chúng ta còn phải để cho Chúa sống trong chúng ta, để Chúa cho đi trong chúng ta và chúng ta được mời gọi cho đi như Ngài.

Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô - Năm C

Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa

Lời Chúa: St 14,18-20; 1Cr 11,23-26; Lc 9,11b-17

*************

Tin Mừng   Lc 9,11b-17

Hôm ấy, Đức Giê-su nói với đám đông về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: “Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng”. Đức Giê-su bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này”. Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một”. Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống. Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.

1. Thái độ sống

Chúa Giêsu và các môn đệ đang đứng trước một cử toạ đông đảo, đói lời Chúa cũng như đói cơm bánh. Lúc ấy, trời đã về chiều mà địa điểm tụ họp lại là một nơi hoang vắng. Thánh Luca đã ghi lại Chúa Giêsu và các môn đệ có hai cách đối xử hoàn toàn khác biệt nhau trong cảnh huống đặc biệt ấy.

Các môn đệ thì đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để mỗi người tự lo liệu lấy cái ăn và nghỉ ngơi cho mình. Thật là đơn giản. Các môn đệ và cả Thầy của họ khỏi bận tâm vất vả, mặc dù giải pháp các ông đề nghị có thể đưa đến một tình trạng xáo trộn có thể là khung khiếp. Chúng ta thử mường tượng cả một đám đông, mà nguyên số đàn ông đã lên tới 5000, kéo vào một vài làng gần đó, chắc hẳn là không có những siêu thị hiện đại dư đầy hàng hoá, để sục sạo mua bán cái ăn thức uống. Cảnh giành giật, cấu xé nhau không thể không xảy ra. Và cảnh tượng ấy hiển nhiên là trái nghịch với cảnh Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa mới rao giảng cho họ. Các môn đệ như muốn giới hạn sứ vụ của các ông và cả của Chúa Giêsu vào những việc ngày nay quen gọi là việc đạo. Thực ra cứ lý tự nhiên mà xét, vào lúc này không thể làm gì hơn là giải tán để mỗi người tự lo liệu lấy. Giải pháp riêng xem ra vẫn dễ hơn và khoẻ hơn. Chẳng phải chúng ta nghĩ oan cho các môn đệ. Bởi vì ngay Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh cho các ông: Các con hãy cho họ ăn đi. Các ông đã trả lời: Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, trừ khi chúng con phải đi mua thức ăn cho tất cả đám đông này.

Nhưng Chúa Giêsu thì lại có một thái độ khác hẳn. Ngài không thể bỏ mặc đám đông đã đi theo Ngài. Sứ mạng của Ngài, như Ngài đã từng khẳng định: Không phải là mưu tìm cơm áo cho những kẻ thiếu thốn bởi vì chính Ngài đã bỏ trốn khi đám đông tìm Ngài để tôn Ngài lên làm vua sau khi được Ngài làm phép lạ cho họ ăn no nê. Nhưng Ngài không giới hạn sứ mạng của Ngài vào những việc thiêng liêng, để rồi làm ngơ trước cái đói, cái khó khăn, cái cùng quẫn của con người. Và ở đây Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài bài học, đó là phải biết quan tâm về cuộc sống của những người chung quanh. Mọi sự đều được bắt đầu từ sự quan tâm này. Đồng thời không có sự quan tâm này thì mọi sự đều trở nên khó khăn. Trái lại, khi đã có sự quan tâm nhập cuộc, thì tình hình khó khăn sẽ được giải quyết như bởi một phép lạ. Dĩ nhiên, sự quan tâm đến người khác đòi hỏi chúng ta phải đầu tư sức lực, trí tuệ và khả năng để đáp ứng những nhu cầu của họ. Và như thế sự quan tâm cũng có nghĩa là tự hiến mình cho kẻ khác.

Và Chúa Giêsu đã thể hiện tới cùng sự quan tâm này nơi chính bản thân của Ngài, bởi vì Ngài đã ban chính thịt máu Ngài, nghĩa là trọn vẹn cuộc sống của Ngài cho kẻ khác: Các con hay cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các con hãy cầm lấy mà uống vì này là máu Ta. Cử hành Thánh Thể chính là lặp lại cử chỉ tự hiến của Chúa Giêsu: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Thánh Thể không phải chỉ là một nghi lễ, nhưng hơn thế nữa còn là một thái độ sống, một sự quan tâm, một sự dấn thân vì hạnh phúc của người khác.

2. Mình Máu Chúa – Veritas

(Trích trong ‘Hãy Ra Khơi’)

Hôm nay, tôi bỗng chợt nhớ đến một kinh nghiệm sống trong gia đình và thường được lặp đi lặp lại mãi trong thời gian tôi 57 tuổi. Cứ mỗi lần mẹ tôi làm bánh hay cha tôi tát các mương đìa quanh nhà bắt cá thì tôi thèm thuồng ngồi bên nồi bánh vừa chín hoặc tiếc nuối những rổ tôm cá. Thèm thuồng vì rổ bánh chín mà mình muốn ăn nhưng mẹ tôi lại cứ lấy đi phân chia, bảo tôi đem cho người này người nọ, hoặc hối tiếc những con tôm, con cá mà mẹ tôi bắt đem cho các gia đình hàng xóm, những người cần đến. Mỗi lần bảo tôi mang đi cho người khác thì tôi không muốn cho đi, bấy giờ mẹ tôi lại bảo: “Con ạ, mình giữ lại ăn thì hết mà cho người ta ăn thì còn mãi”. Tôi không bao giờ quên lời nói đơn sơ này đi kèm với chính hành động chia bánh, chia cá cho những người xung quanh.

Hôm nay đọc lại đoạn Tin Mừng của lễ Mình Máu Thánh Chúa, kinh nghiệm gia đình tôi đã trải qua và nhất là lời giải thích của mẹ tôi: “Mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn”. Một lần nữa lại xuất hiện và giúp tôi phần nào hiểu thêm kinh nghiệm mà các tông đồ đã trải qua ngày xưa trong biến cố được kể lại trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa đọc qua. Vào thời điểm của biến cố, chắc chắn các tông đồ đã được nhìn thấy nhiều việc làm của Chúa Giêsu để thực hiện tình thương đối với con người. Những lời nhắn nhủ dạy bảo của Chúa đã đánh động các ngài là sẽ không được sống ích kỷ, không được mơ ước vinh quang, danh vọng, địa vị cho bản thân khi theo Chúa. Thế nhưng, khi phải đối diện với một nhu cầu cụ thể của muôn người đang theo Chúa mà bị đói thì các ngài có phản ứng tránh né, thoái thác, không muốn hy sinh làm một cái gì đó để giúp vào. Các ngài đã nhắc khéo Chúa cho đoàn người ra về để họ tự lo giải quyết lấy vấn đề ăn uống. Chúa Giêsu đã làm ngược lại, Ngài ra lệnh: “Các con phải cho họ ăn”. Làm đồ đệ của Chúa, nhất là trong địa vị các tông đồ thì càng không thể chối từ trước lời mời gọi của tình bác ái liên đới. Và không để các tông đồ sống trong một thái độ tiêu cực lâu hơn nữa. Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông cộng tác vào công việc cho đi của Ngài. Trước hết, bằng việc chịu cực một chút, dấn bước hơn một chút để ra khỏi cái tôi ích kỷ, để tổ chức đám đông ngồi xuống bãi cỏ thành từng nhóm cho có trật tự.

Chắc chắn, đây cũng là một công việc khá phức tạp so với phương tiện thời đó. Phức tạp hơn là việc rửa chén quét nhà, rót cho người khách một ly nước, dù chỉ là một ly nước lã, nếu phải ly nước trà lại càng phải hy sinh nhiều hơn nữa: “Con ạ, mình ăn thì hết, người ta ăn mới còn”. Không biết mẹ tôi đã học được lẽ khôn ngoan này nơi đâu? Chắc chắn không phải nơi sách vở, vì mẹ tôi chỉ học xong tiểu học, như vậy có thể là từ Chúa. Tôi không biết. Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ cầm lấy bánh và cá mà Ngài vừa chúc phúc để đem phân phối cho dân chúng. Như mẹ tôi đã bảo tôi đem bánh, đem cá đi cho người xung quanh để họ cũng được hưởng một bữa ăn ngon như nhà tôi lúc tát đìa hoặc làm bánh. Cử chỉ Chúa Giêsu thực hiện và được mô tả trong đoạn Phúc âm của thánh Luca hôm nay loan báo cho các môn đệ là Chúa sẽ thiết lập Bí tích Thánh Thể sau này. Chắc chắn sau kinh nghiệm sống với Chúa, các tông đồ hiểu được bí quyết sâu xa của Bí tích Thánh Thể, hy sinh chính bản thân mình như Chúa để nên của ăn đem lại hạnh phúc vui mừng cho anh chị em.

Chúng ta có thể nói, mừng lễ kính Mình Máu Chúa hôm nay như là ôn lại một kinh nghiệm gia đình, kinh nghiệm đại gia đình Giáo Hội của chúng ta. Bí tích Thánh Thể là trung tâm trong đời sống của mỗi người chúng ta cũng như là trung tâm của sinh hoạt Giáo Hội. Mỗi người chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội đều được mời gọi ôn lại kinh nghiệm gia đình mà Chúa Giêsu đã thực hiện với các tông đồ ngày xưa, Ngài mời gọi các tông đồ hãy cộng tác với Ngài để cho đi, cho đi chính Ngài, cho đi chính bản thân của họ. Mỗi người chúng ta hôm nay cử hành lễ Mình Thánh Chúa, chúng ta cũng được mời gọi cho đi chính mình như Chúa đã cho đi. Chúng ta tôn thờ sự hiện diện của Chúa không đủ, chúng ta còn phải để cho Chúa sống trong chúng ta, để Chúa cho đi trong chúng ta và chúng ta được mời gọi cho đi như Ngài. Xin Chúa củng cố đức tin cho chúng ta, để chúng ta cho đi trong tình thương bác ái, để chúng ta được sống như Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể mỗi ngày như Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

3. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu

Lễ nào không phải là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải đặt ra ngày lễ hôm nay? Đó là vấn đề đã được tranh luận sôi nổi ở cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV trước khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được phổ biến ở mọi nơi. Trước đó, tức là trong hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh vẫn cử hành thánh lễ tạ ơn, nhưng không nghĩ tới việc đặt ra một ngày lễ đặc biệt để tôn thờ Chúa Giêsu ngự nơi Thánh Thể. Hội Thánh coi Thánh Thể là lương thực hàng ngày nên không để ý quan sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang đến cuối thế kỷ XII, vì có người đặt vấn đề sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể, Hội Thánh mới thấy việc chiêm ngưỡng và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được đặt ra để nói lên niềm tin vào việc Chúa ngự nơi Thánh Thể. Và niềm tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong thái độ chầu Mình Thánh và kiệu Mình Thánh. Đó còn là những việc mà chúng ta muốn làm hôm nay cùng với việc dự lễ và rước lễ để nói lên lòng tin yêu của chúng ta đối với bí tích Thánh Thể.

Nhưng cho dù chính đáng, những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn không cần thiết bằng việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ đầu. Và những bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này.

1. Bánh rượu trong tay Melkisedek.

Bài sách Khởi Nguyên đưa chúng ta về một thời đại xa xưa, thời của tổ phụ Abraham. Hôm ấy vị tổ phụ đi giao chiến để cứu anh em mình là gia đình ông Lót. Abraham đã toàn thắng. Trên đường về có vua ở Sôđôma ra đón để chúc mừng và tỏ tình thân thiện. Lại có vua ở Salem là Melkisedek cũng ra gặp gỡ.

Tác giả sách Khởi Nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu truyện. Nhưng đây là ba câu đã có ảnh hưởng lớn trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ ngữ đều có ý nghĩa. Melkisedek, nếu chiết tự thì có nghĩa là Vua Công Chính. Và Salem không những là tên được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi lên tư tưởng Hòa Bình. Chắc chắn câu truyện kể ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại Giêrusalem, ở ngay thời của tổ phụ dân Chúa. Người ta truyền tụng nó để đề cao Giêrusalem, và để nói lên rằng: thủ đô của dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân tộc đặt chân đến.

Hơn nữa, ở đây, nơi đô thị ‘Hòa Bình’ này, vị tổ phụ đã gặp một nhân vật ‘mầu nhiệm’. Ông không phải chỉ là vua, mà còn mang danh hiệu là ‘ông vua công chính’. Về sau người ta đã cố gắng tìm hiểu lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ đi đến một kết luận: ông như không cha không mẹ; ông đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất tăm hơi. Ông là con người mầu nhiệm, y như thái độ của ông trong câu truyện này.

Ông ra đón Abraham, nhưng khác hẳn với vua Sôđôma đã ra gặp vị tổ phụ. Vì mặc dù là Vua Salem, ông đã không nghênh đón ‘người đại thắng khải hoàn’ theo cung cách triều đình, nhưng với tác phong là tư tế; vì theo tục lệ đông phương thời ấy, hoàng đế cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông chúc lành cho Abraham và ông ca tụng Chúa Tối Cao. Ông dùng chính vị Chúa của mình là Đấng Tối Cao dựng nên trời đất để chúc phúc. Ông làm cho Abraham như phải cúi đầu và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.

Có lẽ hàng tư tế Do Thái đã thích câu truyện này và muốn lợi dụng tối đa. Họ nhắc đi nhắc lại để cho con cái Israel phải quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế, vì chính vị tổ phụ đã làm như thế!

Nhưng phần lớn truyền thống Cựu Ước lại chú ý đến vai trò tư tế của Melkisedek và vị Chúa Tối Cao mà ông tôn thờ. Ngài là Đấng dựng nên trời đất, nên Ngài cũng là chính Giavê, Chúa của dân Israel. Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy Ngài là Chúa toàn năng của tất cả mọi người, cả khi người ta không biết Ngài. Tất cả những tư cách này khiến con cái Israel –cũng như tổ phụ Abraham thấy ngay Ngài cũng là Thiên Chúa của họ và Giêrusalem thật là nơi thánh địa, vì từ đầu vẫn là đô thị của Thiên Chúa.

Điều này cũng nói lên quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự nhiên, tôn thờ Đấng dựng nên trời đất, như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo, chứ tôn giáo tự nhiên thờ Đấng Tối Cao là chính giáo ở thời chưa được mạc khải, nên vẫn đáng trọng.

Tuy nhiên Cựu Ước chưa chú trọng đến bánh rượu ở trên tay Melkisêdek như phụng vụ muốn cho chúng ta phải làm trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trên tay vị tư tế mầu nhiệm của tôn giáo tôn thờ Đấng Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh rượu sẽ được đôi tay của vị tư tế đạo mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất, ngay từ buổi đầu của lịch sử dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh rượu làm lễ vật. Những của lễ này nằm trên tay Melkisêdek nói lên lòng tôn thờ tự nhiên, chuẩn bị cho việc tôn thờ hoàn chỉnh sau này.

Do đó ngày nay trong Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu ‘là hoa mầu ruộng đất và lao công vất vả của con người’ để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh lễ của chúng ta kiện toàn lễ dâng của Melkisêdek. Bánh rượu trên tay vị tư tế này đang chờ được vị thượng tế đạo mới thánh hóa. Và như vậy, Thánh lễ của chúng ta đã bắt nguồn từ xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua Melkisêdek và cho tới nay. Chúng ta không dâng lễ ở ngoài lịch sử, nhưng dâng tất cả lịch sử làm của lễ khi nhận lấy bánh rượu đã được dâng từ thời Melkisêdek để trở nên bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho chúng ta.

Và Melkisêdek là hình ảnh báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của Người, trong đó có cả chúng ta. Do đó, mỗi khi dâng lễ, chúng ta lại nhớ tới vị tư tế xa xưa này. Mỗi khi cầm bánh rượu, chúng ta như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử. Chúng ta muốn tất cả trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta sau khi đã biến đổi nên Mình và Máu Chúa Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của Người nối kết và hoàn chỉnh mọi lễ dâng của các thế hệ xa xưa cũng như của những thế hệ sau này. Chúng ta hãy nhìn Người trong hành vi tế lễ.

2. Bánh rượu trong tay Chúa Giêsu.

Chắc chắn, khi còn ở trần gian và sống với các môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần cầm lấy bánh rượu. Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi lần khác để chỉ nhớ lại một lần, lần xảy ra trong bữa ăn tối sau hết trước khi Ngài ra đi chịu chết.

Lần ấy Người đã cầm lấy bánh rượu một cách khác thường, không thể quên được, đến nỗi mỗi khi nhắc lại đã có lần nào Người cầm bánh rượu, là môn đệ lại nhớ đến lần này và lấy cử chỉ, thái độ của Người trong lần này để mô tả mọi lần khác. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói đến lần Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu ở bàn Tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài Tin Mừng kể việc Đức Giêsu cầm lấy bánh để chia trong một dịp khác.

Việc này xảy ra trước bữa Tiệc ly; nhưng như đã nói, môn đệ Chúa đã kể lại việc này theo ‘khuôn mẫu’ của việc Người cầm lấy bánh rượu ở trong bữa ăn cuối cùng. Thành ra, chính bài thư Phaolô sẽ giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng, mặc dù câu truyện kể ở đây đã xảy ra trước, nhưng đã được viết lại sau và theo kinh nghiệm bàn Tiệc ly.

Thánh Phaolô viết đoạn thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền thống chân thật, đây là điều người đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt nguồn từ Chúa để truyền lại cho tín hữu. Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy tín chân thật này mới có thể làm cho giáo dân Côrintô suy nghĩ và sửa mình.

Họ vẫn hội họp nhau để cử hành ‘bữa tiệc của Chúa’. Nhưng Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là ‘của Chúa’ cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại rồi. Bởi vì ai đến ăn, cũng mang phần riêng của nhà mình tới. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu một cách tham lam và khinh bỉ những người khác. Những người này nghèo hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách buồn bã. Người ta chỉ mượn ‘Nhà của Chúa’ để mang đồ ăn của ‘nhà mình’ tới. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành ‘bữa ăn tối’ của Chúa nữa.

Thế nên để sửa dạy giáo dân của Ngài, Phaolô nhắc lại thế nào là ‘bữa ăn’ đích thực của Chúa. Người làm cho họ nhớ giáo huấn chân truyền. Và sự thật ấy thế này: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Người đã bẻ ra và nói: “Này là Mình Ta… vì các ngươi…”. Cũng vậy về Chén, sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói: “Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta”.

Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Người nói rõ việc ấy xảy ra trong đêm Đức Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này cho môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn của Người. Và ‘Bữa Ăn Của Chúa’ luôn luôn mang sắc thái của bữa Tiệc ly.

Đó cũng là bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, nhắc lại việc Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập và tin tưởng cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải cứu nữa trong tương lai cho đến khi có giao ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ của Chúa từng loan báo. Và trong bữa ăn này, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Đức Giêsu lại tuyên bố: đây là Mình Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ ra. Người còn gọi đó là chén giao ước mới. Do đó, rõ ràng Người đã tự coi, tự hiến mình nên Chiên Vượt Qua để mang đến ơn cứu độ mà các ngôn sứ từng loan báo.

Các môn đệ không lầm. Họ thấy rõ với các cử chỉ của Chúa Giêsu đã khai trương thời đại mới. Người đã thay thế bữa ăn Vượt qua của người Do Thái bằng bữa ăn của Người hôm nay. Có thể họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu, vì phải đợi đến ngày hôm sau khi thấy Mình Ngài bị nộp và Máu Ngài chảy ra họ mới biết hết ý nghĩa. Nhưng họ đã cảm thấy chắc chắn Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của Người hôm nay để ký kết giao ước mới, chấm dứt đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước sang thời đại cứu độ và nếp sống mới. Và nghi lễ mới cũng đã được thiết lập, vì Đức Giêsu đã bảo: ‘Phải làm sự này mà nhớ đến Người’. Tức là mỗi khi nhớ đến Ngài, nhớ đến để hiệp thông với Ngài trong hành vi cứu độ để được Giao Ước mới, phải làm việc Ngài vừa làm, tức là phải cầm lấy bánh rượu mà làm như Ngài.

Thế mà giáo dân Côrintô đâu có làm như thế! Thánh Phaolô phải bảo họ ‘mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén ấy, anh em loan báo sự chết của Chúa… anh em làm bất xứng, thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa.

Những lời này tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh rượu đã trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Nếu ngày lễ hôm nay có ý nói lên niềm tin Chúa hiện diện nơi Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời thánh Phaolô vừa nói đã đạt yêu cầu. Nhưng mục đích của thánh Phaolô không phải chỉ muốn nói đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể; Người muốn rằng người ta phải hiệp thông với Chúa, có tâm tình của Chúa để cử hành tiệc Bánh Rượu.

Đây là bữa ăn Vượt qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy tất cả lịch sử từ trước cho đến nay với tâm tình tạ ơn, nhưng cũng với ‘ý thức xót xa vì bao nhiêu khiếm khuyết để ước mong được cứu độ nhờ giao ước mới. Người ta sẽ cầm lấy bánh và chén rượu. Và lúc ấy theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ đến Người, nhớ đến cuộc Tử Nạn hồng phúc của Người. Người ta tham dự, thông phần lễ hy sinh Người đã dâng để được vượt qua, sống lại, hướng về ngày vinh quang Người trở lại.

Bánh rượu trên tay Chúa, vì thế, không còn phải chỉ là bánh rượu như trên tay Melkisêdek nữa. Nếu trên tay vị tư tế mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho thiên nhiên, thì trên tay Chúa Giêsu, bánh rượu mang thêm ý nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Đó không phải chỉ là hoa mầu ruộng đất, nhưng còn là lao công vất vả của con người. Thiên nhiên và con người đều phải trở nên tạo vật mới, nhờ mầu nhiệm Chúa Giêsu nơi bí tích bánh rượu mà chúng ta còn tiếp tục dâng trên bàn thờ.

3. Bánh rượu trên tay chúng ta.

Dĩ nhiên khi dâng bánh rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa nói; vì lời thánh Phaolô nói với tín hữu ở Côrintô cũng là để cho chúng ta. Nhưng mục đích cuối cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho chúng ta nhớ ‘Bữa Ăn Của Chúa’, mà còn khuyên chúng ta vì tính chất của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành tiệc Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.

Ở đây chúng ta hãy nhớ bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh rượu của Đức Giêsu nơi bàn Tiệc ly đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những lần khác mà Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu, các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ của Người ở bàn Tiệc ly và dùng chúng làm khuôn mẫu để diễn tả. Điều này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca kể hôm ấy Chúa muốn thết đãi những người đi theo Chúa vào nơi hiu quạnh. Người cho họ ngả mình xuống thành từng cỗ, mỗi cỗ độ năm mươi… Rồi Người cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng mặt lên trời và chúc tụng trên bánh và cá, đoạn bẻ ra và ban cho môn đệ để họ thết đãi dân chúng.

Chúng ta bảo bữa ăn này báo trước bàn Tiệc ly và nhất là bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh; hay chúng ta phải nói các bữa ăn Thánh Thể và bàn Tiệc ly đã cung cấp cho thánh Luca mọi yếu tố để thuật lại một câu truyện xảy ra trước? Dĩ nhiên câu truyện này cũng có ý báo trước những việc xảy ra sau… nhưng chính những sự kiện xảy ra sau đã đem ý nghĩa đến cho câu truyện xảy ra trước và cung cấp cho nó những tài liệu để diễn tả.

Chúng ta không cần nói thêm điều ấy nữa. Nhưng vì thánh Luca đã nhìn vào bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh để thuật câu truyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng ta hãy xem ngoài các yếu tố báo trước bàn Tiệc ly và tiệc Thánh Thể, thánh Luca còn muốn chú trọng đến điểm nào nữa? Dường như tác giả đã chú ý đến vai trò của các Tông Đồ. Lúc đầu họ muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp lương thực cho dân. Nhưng được Chúa gợi ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất cả và sẵn sàng làm thêm. Chúa bảo họ tổ chức cho dân ngả mình xuống thành từng cỗ. Ngài trao bánh cá cho họ phân phát… cuối cùng còn thu được 12 giỏ mảnh vụn, đúng số 12 Tông Đồ.

Những điều ấy há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ, huống nữa là của ăn vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta không phải chia sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn thu lại được 12 giỏ vụn?

Chắc chắn Hội Thánh ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên thánh Phaolô đã phải nhắc lại. Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta: chúng ta sốt sắng tôn thờ Thánh Thể, nhưng có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để không một ai phải thiếu thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?

Thế nên hôm nay chúng ta phải suy nghĩ về cả ba bài đọc, để khi long trọng tôn thờ Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức thêm về nhiệm vụ bác ái, để mỗi lần cử hành bàn tiệc của Chúa chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn tiệc thánh được Chúa nuôi thì sự sống mới chúng ta nhận được phải đưa chúng ta đến với anh em và chia sẻ số phận với anh em để khi trở lại dâng lễ, chúng ta có bánh rượu là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người dâng lên để trở thành bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta.

4. Ngài cầm bánh bẻ ra

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Ăn uống là chuyện bình thường của mọi sinh vật.

Khi tôi ăn uống, đồ ăn thức uống trở thành tôi.

Tôi sống, tôi hoạt động, tôi lớn lên, nhờ chút rau xanh, cá tươi, đậu trắng.

Tôi được nuôi bằng trời cao, đất rộng và biển cả.

Từ lâu Đức Giêsu mang một khát vọng lớn, đó là nuôi sống linh hồn con người, nuôi mọi tín hữu thuộc mọi thời đại, và nuôi họ bằng chính bản thân Ngài, bằng cái chết và sự sống của Ngài.

Ngài có mắc bệnh hoang tưởng không?

Cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển cho ta thấy Đức Giêsu là con người bình thường khi Ngài cử hành bữa Tiệc Ly tối hôm đó.

Ngài muốn ta tham dự vào cuộc Vượt Qua của Ngài, Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho ta; thành đồ ăn bằng cách biến tấm bánh thành Thịt Mình Ngài, thành thức uống bằng cách biến rượu nho thành Máu Ngài.

Như thế ai ăn Tấm Bánh và uống Chén Rượu đã được Ngài biến đổi nhờ quyền năng Thánh Thần, người ấy nên một với Ngài.

Không phải Ngài trở thành người ấy, cho bằng người ấy trở thành Ngài.

“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”

Mỗi thánh lễ là một lần nhớ đến và làm sống lại hy tế duy nhất năm xưa trên Núi Sọ.

Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Tình Yêu. Tình Yêu luôn có nhiều sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu.

Cần ngắm nhìn cử chỉ bẻ bánh của Đức Giêsu.

Tấm bánh trở thành Tấm Thân Ngài được bẻ ra và trao hiến trên thập giá.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã bẻ bánh để môn đệ phát cho dân.

Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên mãi.

“Anh em hãy cho họ ăn đi.”

Như các môn đệ, chúng ta cũng lúng túng và bất lực trước cơn đói của con người hôm nay, đói cơm bánh, đói tình thương, đói được tôn trọng.

Nếu chúng ta dám trao cho Đức Giêsu tất cả những gì chúng ta có, dù chỉ là nhỏ nhoi; nếu chúng ta chịu để cho Ngài bẻ ra, và làm vỡ tan mọi tính toán ích kỷ, thì chúng ta có thể nuôi được cả thế giới.

Thỉnh thoảng bạn nên cầu nguyện trước Thánh Thể. Bạn có thể học được nhiều điều.

Con Thiên Chúa vinh quang rất mực, lại khiêm tốn hiện diện dưới dạng tấm bánh mong manh, lặng lẽ, đơn sơ.

Tấm bánh không biết nói, không sống cho mình.

Tấm bánh hiện diện là để cho người ta thưởng thức, và tan biến ngay sau khi được hưởng dùng.

Chúng ta có thể bắt chước lối hiện diện ấy của Chúa Giêsu Thánh Thể không?

Gợi Ý Chia Sẻ

Thánh lễ có làm thay đổi đời bạn không? Việc rước lấy Đấng đã tự hiến qua cử chỉ bẻ bánh có giúp bạn dám chia sẻ đời mình cho tha nhân không?

Để có một thánh lễ Chúa Nhật đầy ý nghĩa, bạn thấy mình phải chuẩn bị trong cuộc sống ra sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.

Con mong sự hiện diện ấy lan toả khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ. Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ…

Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.

5. Dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – R. Veritas)

Trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Phúc Âm thuật lại. Đây cũng là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư mười hai thúng miếng vụn. Thánh sử Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm Mười Hai trong phép lạ này. Chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở. Và Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm Mười Hai: “Chính các con hãy cho họ ăn”. Hãy lo cho họ sau khi đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa, được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng và chữa bệnh vàđã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng: “Ở nơi thanh vắng này, dù có tiền cũng không mua được đủ bánh”. Chúa cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ, để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi sống dân chúng. Các môn đệ, theo lệnh của Chúa Giêsu, đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ. Chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi nhận lại từ tay Ngài và trao cho đám đông. Phép lạ đã xảy ra trên bánh này khi Chúa Giêsu chúc tụng và bẻ ra. Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá đã phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng.

Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy mình đứng trước những nhu cầu lớn lao của con người. Nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt. Hàng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có; nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa những cố gắng nhỏ bé của mình; nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tac của Thầy Giêsu đến phục vụ con người, thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa.

Chúng ta đọc lại câu 16 đoạn Tin Mừng trên: “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đm đông”. Khi kể lại cử chỉ của Chúa Giêsu làm lúc lập bí tích Thánh Thể, thánh Maccô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Và trong biến cố hai môn đệ về Emaus, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội thời khai sinh hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và bí tích Thánh Thể. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đều dùng một cử chỉ mà mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập bí tích Thánh Thể được khơi mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều. Những chiếc bánh vật chất như đã giảm cơn đói cho một số người nhất định trong một thời gian nhất định. Mana ngày xưa trong sa mạc cũng không cho người ta sự sống sau cái chết.

Bữa tiệc ly không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: “Này là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Này là chén máu Thầy, sẽ đổ ra cho các con”. Chúa Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để có dịp tham dự vào cái chết và sự phục sinh của Ngài; vào chính bản thân Ngài. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm.

Cựu ước đã hứa rằng trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật. Chúa Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều. Nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Khi thông hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh với hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự bữa tiệc ở Nước Trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài, không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong bữa tiệc ly đã trở thành tấm thân Ngài được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Giáo Hội thời khai sinh đã không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ bẻ bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần.

Xin Chúa giúp chúng ta gặp Ngài trong lễ bẻ bánh.


6. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

KHI NGƯỜI TA BIẾT CHIA BÁNH CHO NHAU THÌ THẾ GIỚI SẼ KHÔNG CÒN NẠN ĐÓI

Phép lạ bánh là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật đến hai lần như Matthêu (Mt 14, 13-21 và15, 32-38.) và Mác cô (6,35-44 và 8, 1-10) Luca ( 9, 12-17) và Gioan (6, 1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một nội dung hết sức quan trọng.

Nội dung đó là: khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.

Tài nguyên trái đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm thú, chim trời cá biển… được Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân trên mặt đất.

Thế thì tại sao có nhiều người đói?

Sở dĩ có nhiều người đói vì có một số người thu gom cho mình thật nhiều, tích trữ cho mình dư dật nên mới xảy ra tình trạng “người thì ăn không hết, người thì làm không ra”.

Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang theo để dành cho ngày mai, cho con cháu… thế là những khách mời đến sau phải đói.

Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn sẵn cho mọi người. Lương thực trên đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng dùng. Nếu cùng nhường nhau mà ăn, thì không ai phải thiếu đói.

Nhưng tiếc thay, có những người nắm trong tay những nhà máy lớn, nắm bắt công nghệ tiên tiến nên đã thu vén cho mình dư đầy của cải, khiến cho những người không có phương tiện sản xuất, không thủ đắc những công nghệ mới đành phải chịu cảnh thiếu đói.

Qua phép lạ bánh hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định với mọi người rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ, không những no đủ mà còn dư.

Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giê-su, say mê nghe lời Ngài giảng dạy quên cả giờ về. Khi ngày tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giê-su giải tán đám đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi người đang ở nơi hoang vắng.

Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các môn đệ đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?”

Thế rồi “Chúa Giê-su truyền cho dân chúng ngồi xuống, Ngài lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.”

Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giê-su kinh ngạc! Chừng nầy cá và bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân. Noi gương các môn đệ, trong đám đông cũng có một số người mang theo chút lương thực dự phòng, cũng mang phần ăn ít ỏi của mình ra mà trao cho người bên cạnh. Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!

Phép lạ nầy cũng như hũ bột của bà goá Sa-rép-ta. Dù đang giữa cơn hạn hán trầm trọng, dù nạn đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi trong hũ và chút dầu còm cõi trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo lời tiên tri Ê-li-a truyền dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người khác. Thế là hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa xuống làm hoa trái tốt tươi. (I Vua 17, 7-16).

Nếu hôm nay, nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giê-su: “Các con hãy cho họ ăn” để rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung quanh mình, thì chắc chắn nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.

* * *

Xin mượn lời kể của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn”.

Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.

7. Chạnh lòng thương – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Mỗi người chúng ta đã từng nghe, từng nói những câu mời gọi sống tình liên đới và chia sẻ bác ái với nhau trong tình làng nghĩa xóm như: “Lá lành đùm lá rách”, hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Sự liên đới đồng cảm với nhau trong tình thần “Tứ hải giai huynh đệ” để có thể “thương người như thể thương thân”. Đó là những lời răn dạy của tổ tiên, là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống của người dân Việt chúng ta. Một dân tộc đặt chữ tình lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người để có thể “tối lửa tắt đèn có nhau”. Thế nhưng, có mấy ai đã thực sự sống điều đó? Có mấy ai đã thực sự sống đùm bọc lẫn nhau? Tại sao một nền văn hóa tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam mà lại có sự chênh lệch giầu nghèo quá lớn như ngày hôm nay? Ở giữa những phồn hoa của nền kinh tế thị trường hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời đói rách bần cùng, kiếm ăn từng bữa, đôi khi cũng chỉ được bữa cơm, bữa cháo! Ngày nay khi xã hội thay đổi, cuộc sống người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Thì ở đâu đó rất gần chúng ta vẫn còn có những mảnh đời lạnh giá cả về thể xác lẫn tâm hồn. Họ là những người vô gia cư bị xã hội đẩy ra bên lề xã hội. Họ là những em bé bị bỏ rơi, bị lợi dụng đang ăn xin, bán vé số, lượm ve chai. Họ là những người tật nguyền không có tiền để đến bệnh viện đành chấp nhận sống lây lất qua ngày … Họ là những con người nghèo đang chờ từng hạt cơm rơi hay từng nghĩa cử bác ái của chúng ta.

Song le, cái đói, cái nghèo không chỉ đến với một vài cá nhân nhưng đôi khi cũng bám vào cả một làng, một xã. Theo báo Nông Nghiệp Việt Nam, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế, có một ngôi làng mà cư dân phải đối mặt với nạn đói quanh năm. Đó là làng Trung Chánh, xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, một ngôi làng không ruộng, không vườn, ăn không đủ no, trẻ con không được đến trường. Báo Nông Nghiệp ghi nhận về tình cảnh khốn khổ của dân làng này qua đoạn ký sự như sau.

Làng Trung Chánh nằm sát đầm Cầu Hai, phá Tam Giang. Cuộc sống ở đây chỉ theo đuổi con tôm, con cá ở đầm. Khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, cả thôn từ già đến trẻ lại kéo nhau “gieo mình” xuống đầm, xuống biển mưu sinh. Cứ như vậy, người và lưới rong ruổi khắp các con đầm, kênh, lạch và ra tận biển từ đêm đến sáng hôm sau. Trong làng chỉ còn lại những người già yếu và trẻ con 3-4 tuổi trong những căn nhà lụp xụp, xiêu xẹo, dột nát.

Làng Trung Chánh 6 giờ sáng, khi những “chuyến đò đêm” trở vào bờ. Cả thôn náo nhiệt tiếng í ới gọi nhau, đàn ông xả lưới, đàn bà quảy hàng đi chợ, trẻ con hò nhau phụ giúp bố mẹ nhặt từng con tôm, con tép còn sót lại. Đã từ lâu dân Trung Chánh hình thành nên thói quen bất đắc dĩ là mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm: “Cả thôn này không có bữa cơm trưa, bữa tối, thường thì chỉ ăn “bữa cơm chính” vào lúc 8-9 giờ sáng, rồi sau đó cả làng cùng đi ngủ, đến tối lại đi làm” một người dân tên Hạnh tâm sự như thế. Và cái tên “làng đói” cũng ra đời từ đó. Buổi trưa, cả thôn không có lấy một nhà nổi lửa. Không gian đìu hiu, chỉ có bóng dáng những đứa trẻ con đầu tóc vàng hoe vì nắng, vì gió tụ tập quanh những bóng tre. Chúng vẫn chưa đến tuổi làm nghề nên vẫn còn được chơi đùa thoả thích. Còn cha, mẹ, anh chị của chúng đã tranh thủ ngủ lấy lại sức sau một đêm dài thức trằng trên đầm, trên phá.

Cũng theo báo Nông Nghiệp Việt Nam, khi kể về chuyện nợ của người dân trong thôn, cư dân Mai Thị Gái chua xót nói với phóng viên “Chú không tin cứ đi hỏi mười người trong thôn này thì có đến… mười một người mắc nợ. Khổ lắm chú ơi. Hồi trước còn có cơm mà ăn, nhưng mấy tháng nay, nhiều gia đình đã chuyển sang…ăn cháo”.

Xem ra làng Trung Chánh đang thiếu một tấm bánh được chia sẻ, được trao ban cho họ. Đất nước chúng ta đang ngày một giầu có vật chất nhưng lại nghèo tấm lòng. Nghèo đến mức chỉ tìm kiếm của cải cho mình mà vẫn chưa bao giờ thỏa mãn. Nghèo đến mức chẳng nghĩ rằng mình có khả năng cho đi. Nghèo đến mức chỉ nghĩ vun quén cho bản thân mà quên rằng mình còn có bổn phận chia sẻ cho anh em trong tình liên đới anh em một nhà. Cái đói, cái nghèo lận vào cuộc đời người dân làng Trung Chánh vì không được sự quan tâm của cộng đồng xã hội. Nếu “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” thì cả một làng đói khổ sao cả một dân tộc không chạnh lòng với những đói khổ của anh em mình?

Hôm nay lễ Mình Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta nhìn lên tình yêu của Chúa. Chúa đã trao ban chính sự sống của mình cho thế gian được sống. Chúa còn trao ban cả Máu Thịt Ngài để trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Có người cho rằng bánh và rượu làm sao trở nên Thịt và Máu của Chúa Giê-su được. Thực ra, chúng ta ăn bánh và rượu vẫn biến đổi thành thịt và máu của chúng ta thì Chúa Giê-su cũng có thể biến bánh và rượu trở nên Máu Thịt Ngài. Điều quan yếu không dừng lại ở việc bánh và rượu trở nên Máu Thịt Ngài mà hệ tại ở việc Ngài trao ban chính sự sống đó cho chúng ta. Để “ai ăn bánh này sẽ không chết muôn đời”. Như vậy, bánh và rượu trở nên Mình và Máu thì dễ, điều quan yếu là chúng ta có dám trao ban chính sự sống đó cho tha nhân hay không?

Nguyện xin Mình và Máu Thánh Chúa cũng biến đổi chúng ta trở nên giống Chúa. Giống Chúa ở trái tim biết chạnh lòng thương xót trước những khổ đau của anh em. Giống Chúa ở tấm lòng sẵn sàng làm bất cứ điều gì để vơi đi nỗi khổ của anh em trong tình liên đới chân thành. Giống Chúa ở việc cũng trở thành tấm bánh được sẻ chia cho tha nhân được sống hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện cao dẹp của chúng ta để mỗi cuộc đời chúng ta thực sự là tấm bánh đem lại cho nhân thế sự no thỏa và niềm vui, hạnh phúc. Amen.

8. Tham dự Thánh Lễ

Nhân ngày lễ kính Mình và Máu thánh Đức Kitô hôm nay, tôi muốn đưa ra một câu hỏi để chúng ta cùng nhau suy nghĩ, đó là: Người Kitô hữu có cần phải đi tham dự Thánh lễ hay không?

Việc tham dự Thánh lễ đối với nhiều người, dù chỉ trong ngày Chúa nhật, cũng đã là một gánh nặng, một việc cực chẳng đã mới phải làm mà thôi. Dĩ nhiên hơn một tiếng đồng hồ ở trong nhà thờ chẳng ăn nhằm chi với đời sống, với những tính toán làm ăn và hưởng thụ của họ.

Nhưng nếu người Kitô hữu là người suốt tuần cảm thấy mình là phần tử của Dân Chúa và ý thức rằng thiên đàng không gì khác hơn là mọi người được hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với nhau, thì làm sao người đó lại không hân hoan đi về nhà Chúa, lại không cảm thấy mình cần phải có mặt trong cuộc gặp gỡ đầy tình mến thương, là Thánh lễ.

Nếu người Kitô hữu là người luôn ý thức sứ mạng của mình ở giữa lòng cuộc đời, là phải chu toàn những nghĩa vụ trần gian từ trong gia đình đến ngoài xã hội, thì làm sao người ấy lại không cảm thấy mình cần phải đến trước mặt Chúa, thú tội cùng anh chị em và xin mọi người cầu khẩn cho mình trước tôn nhan Chúa?

Nếu người Ki tô hữu là người suốt tuần muốn được ánh sáng đức tin soi cho thấy mọi sự và tìm hiểu ý Chúa trong mọi hoàn cảnh và trong mọi biến cố, thì làm sao người ấy lại không cảm thấy mình cần phải đến lắng nghe và suy gẫm lời Chúa?

Nếu người Kitô hữu là người suốt tuần không nhắm mắt và bịt tai lại, nhưng đã biết nhìn thấy những khổ đau vật chất cũng như tinh thần ở chung quanh mình, đã biết chia sẽ những niềm vui cũng như những nỗi buồn với mọi người anh em, và nếu người đó đã từng mang trong cõi lòng niềm hy vọng thúc đảy mọi người tiến đến sự giải thoát của Đức Kitô, thì làm sao người ấy lại không mang niềm hy vọng và nỗi chờ mong đó, hợp với những ý nguyện trong Thánh lễ mà dâng lên Thiên Chúa toàn năng?

Nếu người Ki tô hữu là người luôn ý thức rằng mọi sự mình có từ mảnh vườn và hạt lúa đến vợ chồng và con cái…đều do Chúa ban, còn mình thì có nhiệm vụ khai thác đất đai để giúp ích cho mọi người, thì dĩ nhiên người ấy sẽ hiểu vì sao Thánh lễ lại được gọi là lễ tạ ơn và vì sao mình phải cảm tạ Đức Kitô, Đấng phụng thờ Chúa Cha cách hoàn toàn hơn bất kỳ một người nào khác.

Nếu suốt tuần, sự lao động được quan niệm như là một việc thờ phượng Thiên Chúa, nếu những công lao khó nhọc và những nỗi đau buồn trong tuần đã được biến thành một của lễ thiêng liêng, thì chúng ta hiểu được vì sao cần phải đem tất cả những lễ vật xuất phát từ lòng cuộc đời ấy kết hiệp với của lễ tinh tuyền của Đức Kitô mà dâng lên cho Thiên Chúa.

Việc dâng lễ và rước lễ chỉ có ý nghĩa và giá trị, đồng thời trở nên niềm vui mừng và hy vọng, nếu như trước và sau khi đến nhà thờ, chúng ta cảm thấy mình chỉ có một nghĩa vụ là yêu mến Thiên Chúa trong anh em và yêu mến anh em trong Thiên Chúa, khi đó chúng ta mới cảm thấy rằng chúng ta không có cách nào hơn để sống, ngoài việc kết hiệp với Đấng đã vì yêu thương mà hiến mình trên thập giá và hiện đang sống để chuyển thông sức mạnh tình yêu ấy cho mỗi người chúng ta.

Bởi đó, hãy siêng năng tham dự thánh lễ và sốt sắng rước lễ, nhờ đó chúng ta sẽ kín múc được những lợi ích thiêng liêng cho tâm hồn, mà thánh lễ đem lại cho mỗi người chúng ta.


9. Để tưởng nhớ Thầy

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô, viết năm 57, thánh Phaolô cho chúng ta một chứng từ cổ xưa về bí tích Thánh Thể mà ngài gọi là bữa ăn của Chúa. Ngài khẳng định rằng ngài chỉ là người truyền đạt lại những gì mình đã lãnh nhận từ truyền thống Giáo Hội.

Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Đức Giêsu trong bữa ăn vào đêm Người bị nộp.

Tấm bánh thành Mình Thầy: hãy cầm lấy mà ăn.

Chén rượu thành Máu Thầy: hãy cầm lấy mà uống.

Đức Giêsu còn mời ta làm lại những gì Người đã làm:

“Anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ Thầy.”

Giáo Hội đã vâng lời từ 20 thế kỷ. Có biết bao thánh lễ đã được cử hành trên mặt đất. Thánh lễ nào cũng là một bữa ăn do Chúa thết đãi, và cũng là một nghi thức tưởng nhớ cái chết của Chúa.

Không thể tách rời thánh lễ với cái chết của Đức Giêsu. Mình Thầy sẽ bị nộp, Máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em.

Rước lễ là rước lấy Đấng đã chết vì loài người, như thế là hiệp thông vào cái chết thập giá.

Mỗi lần dự lễ, chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết. Nhưng Đấng đã chết cũng là Đấng đã sống lại, Đấng đang ngự bên hữu Cha và sẽ đến trong vinh quang. Rước lễ chẳng phải là rước một thi hài người chết, mà là đón lấy Đấng đang sống và đang ban sự sống.

Dự thánh lễ là dự một bữa ăn như bữa Tiệc ly, là tham dự vào hy tế năm xưa trên Núi Sọ. Chính vì thế ta không nên dự lễ với hai bàn tay trắng. Cần đem theo tấm bánh của mình trong ngày qua, tuần qua. Tấm bánh làm từ lúa của đất, công của người.

Chúa Giêsu cần tấm bánh của tôi, để Người biến đổi. Thánh Thần cần tấm bánh của tôi, để Người thánh hoá.

Chúa Kitô không từ trời cao ngự xuống tấm bánh. Đúng hơn, Người nâng tấm bánh lên tới Người, và biến nó thành lương thực thần linh nuôi tôi. Như thế, tấm bánh thánh mong manh nhỏ bé lại là nơi hội tụ của cả Thiên, Địa, Nhân. Vũ trụ, con người và Thiên Chúa gặp nhau, hoà quyện.

Bí tích Thánh Thể góp phần biến đổi cả vũ trụ loài người. Những gì là tự nhiên, nay được thần hoá, được biến đổi tận căn mà vẫn không đánh mất chính mình.

Lễ vật tôi dâng lên Chúa, Chúa trao lại cho tôi. Bánh bởi trời cũng là bánh bởi đất…

Mỗi phút trên trái đất, có bao tấm bánh được trao đi.

Trong mỗi tấm bánh bình thường được bẻ ra và trao đi, chúng ta thấy có bóng dáng của tấm bánh Mình Chúa.

Chính nhờ được nuôi bằng bánh thánh tại bàn thờ, mà ta có thể chia sẻ cho tha nhân tấm bánh vật chất, và những tấm bánh tinh thần.

Hãy dâng tất cả những gì thuộc về trái đất và con người, để Đức Kitô biến đổi thành Tấm Bánh Khổng Lồ dâng lên Cha.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo kinh nghiệm của bạn, rước lễ đem lại lợi ích gì cho cuộc sống?

Thánh lễ trở nên nhàm vì chúng ta thường đi xem linh mục làm lễ, và chẳng mang theo một lễ vật nào. Theo bạn, thế nào là tích cực tham dự thánh lễ?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, Chúa là thức ăn, thức uống của con.

Càng ăn, con càng đói; càng uống, con càng khát; càng sở hữu, con lại càng ước ao.

Chúa ngọt ngào trong cổ họng con hơn cả tầng mật ong, vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên đời.

Lúc nào con cũng thấy đói khát và ước ao, vì con không sao múc cạn được Chúa.

Ngài nghiền nát con hay con nghiền nát Ngài? Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con, con cảm thấy cả hai.

Chúa đòi con nên một với Ngài, đòi hỏi đó làm cho con đau đớn, vì con không muốn từ bỏ những thói quen của con để ngủ yên trong tay Chúa.

Con chỉ biết tạ ơn Chúa, ca ngợi và tôn vinh Chúa, bởi đó là sự sống đời đời cho con.

Ruy Broeck

10. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

THÁNH LỄ TRONG NHÀ THỜ VÀ THÁNH LỄ NGOÀI CUỘC ĐỜI

Đức Hồng Y Hellder Camara về ban phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến nơi, Ngài thấy cả xứ đạo đang quỳ gối lăn lộn trên đất, đấm ngực khóc lóc than van như trong cơn đại hoạ. Đêm trước, trong khi mọi người mê mải chuẩn bị đón Đức Hồng Y, kẻ trộm đã lẻn vào nhà thờ ăn trộm những bình đựng Mình Thánh. Kẻ trộm đổ Mình Thánh Chúa ra vườn, lấy đi những bình mà họ tưởng làm bằng vàng. Thật là một sự phạm thánh ghê gớm.

Thế nhưng trong bài giảng hôm ấy, Đức Hồng Y đã làm cho mọi người kinh ngạc khi Ngài nói: Tại sao hôm nay anh chị em mới than khóc. Hằng ngày biết bao lần Chúa Giêsu bị nhục mạ, bị hành hạ, bị chà đạp, bị giết chết trong những anh chị em nghèo khổ, vô gia cư, trong các trẻ em không cha mẹ, không gia đình, sao chẳng thấy ai than khóc? Anh chị em không biết sao, những anh chị em ấy chính là Chúa Giêsu, là Thân Mình Chúa Giêsu, là Thánh Thể Chúa.

Nói như thế, Đức Hồng Y không có ý coi thường phép Mình Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho ta một khía cạnh thường hay bị lãng quên trong khi cử hành bí tích. Đó phải là cử hành bí tích không chỉ trong nhà thờ mà còn phải cử hành cả ngoài cuộc đời nữa.

Đọc bài Tin Mừng hôm nay, ta hãy lưu ý hai điểm:

1- Diễn tiến phép lạ hoá bánh ra nhiều giống hệt như diễn biến một Thánh Lễ. Nếu Thánh Lễ gồm hai phần Phụng vụ Lời Chúa và Phục vụ Thánh Thể thì trong bài tường thuật hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã giảng dạy dân chúng trước rồi mới ban bánh sau. Dân chúng được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa trước khi được nuôi dưỡng bằng bánh đã được chúc phúc. Đây quả là một Thánh Lễ cử hành giữa đời thường. Một Thánh Lễ không có nhà thờ, chẳng có bàn thờ.

2- Cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu khi hoá bánh ra nhiều, khi lập phép Mình Thánh Chúa và khi dùng bữa với các môn đệ làng Emmau giống y như nhau. Cả 3 đoạn văn trên đều tả Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ.

Tại sao có sự trùng hợp thế? Thưa vì Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu rằng: Bí tích không chỉ là một nghi lễ, nhưng là một sự thực. Sự thực ấy phải đâm rễ sâu nơi cuộc đời, phản chiếu đời sống và đem lại lợi ích cho đời sống.

Nếu trong Thánh Lễ Chúa Giêsu ban phát lương thực nuôi linh hồn, thì ngoài cuộc đời, Người đã ban lương thực nuôi thân xác.

Nếu Thánh Lễ là một bữa tiệc huynh đệ, thì trong sa mạc hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã tổ chức một bữa tiệc long trọng, mỗi bàn ăn gồm 50 người để họ chia sẻ với nhau không chỉ cơm bánh mà còn tâm tư tình cảm nữa.

Nếu trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu dâng mình cho Đức Chúa Cha dưới hình bánh rượu, thì ngoài cuộc đời, Chúa Giêsu đã tự hiến mình trên thánh giá.

Nếu trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu dưới hình bánh bị bẻ ra để phân phát, thì ngoài cuộc đời, thân xác Người cũng đã bị bẻ ra trong những sỉ nhúc, đòn vọt, đóng đinh.

Quả thật Chúa Giêsu đã dâng Thánh Lễ không chỉ trong nhà thờ, mà Người còn dâng Thánh Lễ ngoài cuộc đời. Người không chỉ dâng một lễ vật nào đó, nhưng đã dâng chính bản thân mình. Người chỉ cử hành một bí tích, nhưng chính bản thân Người đã trở thành bí tích. Người không chỉ bẻ ra một tấm bánh mà còn bẻ chính thân mình ra để ban phát cho mọi người. Chính vì thế mà lễ dâng của Người có giá trị. Thái độ của Chúa Giêsu khiến ta phải suy nghĩ.

Làm sao ta có thể gọi Thánh Lễ là một bữa tiệc huynh đệ nếu ta vẫn còn giữ trong lòng những thù hận ghen ghét? Làm sao ta có thể đi dự tiệc Thánh Lễ nếu chung quanh ta còn biết bao anh em đói khổ, thiếu thốn? Làm sao ta có thể dâng Thánh Lễ nếu trong cuộc đời ta không hiến mình cho anh em?

Khi truyền lệnh: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Chúa Giêsu không chỉ truyền cho ta cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ. Người còn muốn cho ta dâng Thánh Lễ cả ngoài cuộc đời. Nghĩa là phải chia sẻ, chịu mọi đau khổ, biết khiêm nhường nhịn nhục, biết sống đoàn kết yêu thương, biết hiến mình vì anh em.

Việc cử hành Thánh Lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng như việc cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ. Hơn nữa, nếu thiếu việc cử hành ngoài cuộc đời, những nghi lễ trong nhà thờ sẽ trở thành bùa chú, giả dối và phản chứng.

Xin cho bí tích Thánh Thể trở thành một sự thực trong đời sống. Xin cho chúng ta biết thờ lạy Chúa Giêsu không phải chỉ trong hình bánh mà còn nơi những anh em bé mọn trong cuộc đời. Xin cho chính đời sống ta trở thành một bí tích, chịu bẻ ra để đem lại lợi ích cho anh em. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Theo bạn, thế nào là tích cực tham dự Thánh Lễ?

2. Rước lễ đem lại những ơn ích nào cho đời sống thiêng liêng của bạn?


3. Bạn đã dâng Thánh Lễ trong cuộc đời chưa?
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
  • Blogger Comments
  • Facebook Comments

0 Reviews:

Đăng nhận xét

Hãy để lại nhận xét của bạn về bài này: Nếu không có tài khoản, hãy bấm vào: Nhận xét với tên --> Tên/URL --> Ghi tên và bấm tiếp tục.

Top