2 Ảnh

16.3.13

Lòng thương xót của Chúa


Chúa Nhật V Mùa Chay (C): Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
Thái độ của Chúa Giêsu mở ra một viễn tượng mới đó là sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng thời cũng muốn cho con người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ của Ngài, nhưng hãy dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống: “Ta không kết án con”. Đó là lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình. “Nhưng từ nay đừng phạm tội nữa”. Mỗi người Kitô chúng ta, đồ đệ của Chúa Giêsu đều ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, dốc quyết canh tân đời sống và noi gương Chúa mà tha thứ cho những lầm lỗi của anh chị em, như chính Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với anh chị em xung quanh, đừng kết án anh chị em nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ anh chị em trở về với Chúa. Hơn nữa mỗi người Kitô chúng ta cần được mời gọi cầu nguyện, cầu nguyện cho người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.


CHÚA NHẬT V MÙA CHAY, NĂM C
Các bài suy niệm và chú giải Tin Mừng

Lời Chúa: Is 43,16-21; Pl 3,8-14; Ga 8,1-11

Tin Mừng: Ga 8,1-11

Khi ấy, Đức Giê-su đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giê-su nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”


1. Lòng thương xót của Chúa

Người Do Thái là những kẻ xác tín rằng con người chỉ có thể được coi là công chính nếu tuân giữ trọn vẹn luật Maisen. Thực ra, nếu họ là những người sống công chính theo lề luật, thì điều đó tự nó không phải là một chuyện xấu, mà còn tốt nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ trở thành những kẻ xấu và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là vì họ vênh vang tự đắc về cái thành tích giữ luật của mình, và nhất là tự biến mình thành những “cảnh sát” của đạo, những loại chó săn, chuyên môn đi rình mò, đánh hơi để tố cáo những người phạm luật. Và họ không ngại nhân danh lề luật, nhân danh lòng nhiệt thành bảo vệ luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ lỗi luật.

Câu chuyện người đàn bà ngoại tình hôm nay thật là tiêu biểu cho cái thái độ đạo đức giả của những tín đồ Do Thái cuồng tín và cái ác ý của họ. Thực ra ở đây họ không chỉ nhằm tố cáo những phụ nữ yếu đuối đáng thương, nhưng chủ yếu là giăng trước mặt Chúa Giêsu một cạm bẫy: Họ tố cáo người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy bắt lỗi chính Chúa Giêsu và như vậy để có bằng chứng tố cáo Ngài.

Chúng ta biết rằng luật Maisen truyền ném đá giết chết những kẻ ngoại tình. Nhưng vào thời Chúa Giêsu, thì quyền xử tử đã bị tước khỏi người Do thái, vì chỉ có tổng trấn Rôma, đại diện hoàng đế tại Giêrusalem mới có quyền ấy. Vậy nếu Chúa Giêsu tuyên bố là phải ném đá người phụ nữ, thì họ sẽ đi tố cáo với quan tổng trấn là Ngài đã phạm pháp. Còn nếu như Ngài tuyên bố là tha bổng thì điều đó có nghĩa là Ngài không tôn trọng luật Maisen.

Chúa Giêsu đã phá vỡ cạm bẫy của họ bằng cách giăng trước mặt họ một cạm bẫy tinh vi hơn nhiều. Ngài bảo họ: Ai trong các ông vô tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Thế là “dĩ đào vi thượng sách”, bọn biệt phái liền đánh bài chuồn. Tác giả Kinh Thánh đã hóm hỉnh ghi lại một chi tiết: Họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Sở dĩ như thế là vì câu thách thức của Chúa Giêsu khiến cho mỗi kẻ trong bọn họ phải ngó lại chính lương tri của mình và khám phá ra rằng: mình càng già thì càng lắm tội.

Lời nói của Chúa Giêsu là ánh sáng chân lý vạch trần sự đạo đức giả của họ. Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Như thế toà án nhân dân bỗng trở nên vắng lặng, chỉ còn lại có tội nhân được dùng như con mồi, như cái bẫy, và Chúa Giêsu mà bọn biệt phái muốn gài bẫy để đưa ra trước vành móng ngựa. Toà án chỉ còn lại một phạm nhân và một người cũng đang bị kẻ khác muốn luận tội, hay nói cách khác, đối với bọn biệt phái thì cả hai đều là những kẻ có tội đứng trước luật pháp của Maisen. Phiên toà kết thúc một cách nhẹ nhàng với lời lẽ đầy từ bi của Chúa Giêsu: Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa.

Có người nói Chúa Giêsu đã giải tội mà quên cả việc đền tội, quên cả công thức giải tội. Thái độ của Chúa Giêsu thật khoan dung độ lượng với người tội lỗi, còn chúng ta thì ssao, chúng ta đối xử như thế nào đối với những kẻ tội lỗi?

2. Gặp gỡ Đức Kitô

Gặp gỡ người khác trong cuộc đời là chuyện thường ngày. Tuy nhiên có những cuộc gặp gỡ đã ghi lại dấu ấn sâu xa. Chẳng hạn gặp người bạn khác phái để rồi yêu thương và cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình. Gặp thầy gặp thuốc trong cơn bệnh nặng để tồi được chữa lành. Gặp người bạn biết an ủi khích lệ để rồi tìm thấy niềm vui mừng và hy vọng. Đó là những cuộc gặp gỡ cứu sống, biến đổi toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta.

Còn với Đức Kitô thì sao? Cuộc gặp gỡ với Ngài có phải là cuộc gặp gỡ cứu độ như một bài hát quen thuộc: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh… Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau dừng lại để suy nghĩ về những cuộc gặp gỡ với Chúa.

Trước hết là cuộc gặp gỡ Chúa của bọn biệt phái. Họ đến gặp ngài để hỏi Ngài xem có nên ném đá người đàn bà ngoại tình, mà chiếu theo luật Maisen, sẽ bị ném đá cho chết. Thế nhưng bên trong, họ muốn gài bẫy làm hại Ngài. Bấy giờ Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Ngài thinh lặng và bình tĩnh làm như không có chuyện gì xảy ra. Ngài không giận dữ, vạch mặt chỉ tên những kẻ giả hình. Ngài kiên nhẫn chờ đợi. Một sự im lặng dành cho những kẻ đang hung hăng đòi lên án, đang mưu đồ ám hại người lành. Một sự im lặng như để mời gọi họ hãy tự xét về chính hành động của mình. Song họ đã không hiểu được ý Ngài. Vì họ cứ hỏi mãi, nên cuối cùng Ngài mới nói: Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất như chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

Thế nhưng có chuyện đã xảy ra, bởi vì họ bắt đầu bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất. Chúa Giêsu đã tỏ ra hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và khoan dung. Ngài luôn trân trọng đối với những bậc thầy trong dân, những người trí thức, có một tinh thần đạo đức nào đó. Không có chuyện kết án, phạt tội nhãn tiền. Trong thái độ yên lặng và kiên nhẫn, Ngài mời gọi họ hãy trở về với cõi lòng của mình, với chính cuộc sống của mình mà suy xét và hành động cho xứng hợp. Ngài mời gọi họ sống ý thức chân thật, chứ đừng hung hăng mà đánh mất chính mình. Như thế chẳng phải là Ngài đã cứu họ sao? Ngài cứu họ khỏi mưu kế giết chết hai người, là người đàn bà và chính họ nữa.

Tiếp đến là cuộc gặp gỡ của người đàn bà ngoại tình. Chị bị dẫn độ đến gặp Ngài. Chị thật xấu hổ, đứng im như tượng đá, mặt cúi xuống, sẵn sàng đón nhận hình phạt nặng nề nhất do hành vi sai phạm của mình. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn im lặng làm ra vẻ không có chi quan trọng để phải dùng đao to búa lớn đối với con người hèn yếu này. Ngài cúi xuống và viết trên cát. Ngài hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và đợi chờ, cho đến khi chẳng còn một ai, mới ngẩng đầu lên và hỏi: Họ đâu cả rồi, không ai kết án chị sao? Phải chăng Ngài muốn mời gọi chị đích thân kiểm tra sự thay đổi tình hình đang xảy ra, một sự thay đổi do chính thái độ của Ngài gây nên. Và sau đó, Ngài mới kết luận, mới tỏ thái độ của mình: Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa. Qua đó Chúa muốn nói: chị đã phạm tội và đáng bị lên án. Nhưng chị đã gặp được Ngài, là tình yêu tha thứ. Ngài tin tưởng ở chị một sự thoát xác, một sự đổi đời. Chị đã được thoát chết, thì kể từ giờ, chị hãy tỉnh ngộ và hướng dẫn đời mình theo một chiều hướng tích cực hơn.

Chúng ta không biết điều gì đã xảy ra cho bọn biệt phái và người đàn bà sau cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Nhưng qua bài đọc thứ hai, chúng ta biết được sự chuyển biến nơi thánh Phaolô sau khi gặp được Đức Kitô trên đường đi Đamas. Trước kia, Phaolô đã coi Đức Kitô như kẻ thù không đội trời chung và Phaolô đang lùng bắt những người tin theo Ngài. Cuộc gặp gỡ với biến cố ngã ngựa đã khiến cho Phaolô trở về với chính mình. Và sau một thời gian ẩn mình trong hoang địa, Phaolô đã bị Đức Kitô chinh phục và đã hoàn toàn đổi thay hướng đi cho cuộc đời mình.

Xuyên qua những cuộc gặp gỡ trên, Chúa Giêsu đều mời gọi chúng ta bước đi trên con đường cứu độ, trở lại với chính mình để rồi từ đó xác định hướng đi mới cho cuộc đời, như bài hát chúng ta thường nghe: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh…


3. Đừng phạm tội nữa

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng xấu hổ. Nhưng nếu tội đó là tội ngoại tình thì thật là kinh khủng.

Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc xếch, rối bù, bị lôi đi, mắt cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.

Trời tang tảng sáng, nơi Đền Thờ Giêrusalem, Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông. Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa. Các kinh sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình. Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.

“Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”.

Quả là một câu hỏi bất ngờ, lịch sự và nham hiểm.

Đức Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê, và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình. Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất. Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp.

Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ tố cáo sốt ruột. Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.

“Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi.” Ngài trả lời, rồi lại cúi xuống viết trên đất. Câu trả lời của Ngài bất ngờ vang trong tĩnh lặng, bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội?

Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình.

Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.

Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.

Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.

Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.

Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho cuộc đối thoại.

Đấng duy nhất có thể ném đá lại nói: “Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa.”

Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến bế tắc.

Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu, nhưng lại không ích lợi gì cho người phạm tội.

Đức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài còn làm sống lại một đời người.

Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.

Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.

Gợi Ý Chia Sẻ

Chỉ có tình thương mới biến đổi được con người. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin người phụ nữ ngoại tình sẽ đổi đời không?

Để sống với nhau cần có luật lệ và nguyên tắc. Có khi nào bạn thấy luật lệ bóp chết con người không? Cần phải làm gì để tránh rơi vào những nguyên tắc cứng nhắc?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa: vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.

4. Lòng thương xót của Thiên Chúa

(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)

Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.

Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.

Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.

Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.

Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.

Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?

2. Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?

3. Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của bạn không?

4. Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?

5. Tội bắt quả tang – Thiên Phúc.

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói: “Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những người khác không sao bì kịp, vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo:

- Ta nghe tục ngữ có câu: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” có phải thế không? Tổng Hoằng liền quỳ xuống tâu:

- Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.

Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị: “Việc hôn nhân không thành được, con người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc”.

Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.

Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.

Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.

Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.

Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.

Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.

Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.

Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”. Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.

Lạy Chúa, chúng con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.

Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ kết án anh em của mình. Amen.

6. Tình thương cứu độ

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Văn hào Ngài Léon Tolstoi có kể câu chuyện: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc, không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì lời bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.

Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá nầy cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném đá trả lại ngươi”.

Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.

Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật: Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: Tại sao ta phải mang nặng hòn đá nầy từ bao nhiêu năm qua? Con người nầy, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ đáng thương như ta!”

Chúa Giêsu hôm nay cũng không ném đá người thiếu phụ ngoại tình. Và những người tố cáo chị ta cũng không ai dám ném hòn đá đầu tiên. Câu chuyện kể về người thiếu phụ ngoại tình như sau:

“Khi ấy, Đức Giêsu đang ngồi tại hành lang Đền Thờ Giêrusalem thì bỗng có một nhóm đàn ông điệu đến trước mặt Ngài một thiếu phụ run lẩy bẩy, mặt mày tái mét. Họ trình với Ngài rằng: họ đã bắt được quả tang người thiếu phụ nầy đang phạm tội ngoại tình. Theo lề luật, Môisê truyền phải ném đá mụ nầy. Về phần Ngài, Ngài nghĩ sao?”.

Dĩ nhiên là họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu: Nếu Ngài nói ngược lại với luật Môisê thì những người Do Thái sẽ chống lại Ngài, còn nếu Ngài khuyến khích họ ném đá người thiếu phụ, điều mà luật lệ Rôma không cho phép, thì chắc chắn Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền Rôma lúc đó đang chiếm đóng. Thực sự, Đức Giêsu đã không trả lời ngay câu hỏi của họ. Tin Mừng thuật lại là: Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết Ngài viết gì. Có lẽ Ngài muốn nhắc cho chính nhóm đàn ông kia là muốn phạm tội ngoại tình thì phải có hai người, và Lề Luật đã quy định là cả hai đều bị phạt chịu ném đá cho đến chết. Thế mà họ chỉ điệu đến trước mặt Ngài có một mình người thiếu phụ nầy. (Còn người đàn ông kia đâu?). Vậy thì chính họ, nhóm đàn ông ấy, đã phạm tội bất công, kỳ thị nam nữ, phân biệt đối xử và phạm tội giả hình… (chứ thì phái mày râu các ông không phạm tội ngoại tình sao?)

Sau khi viết xuống đất một hồi, Đức Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi!”.

Rồi Ngài lại cúi xuống viết tiếp… Ngài còn đang viết thì có một sự kiện thật ngoạn mục xảy ra: nhóm đàn ông nầy bắt đầu lặng lẽ rút lui có trật tự, những người già hơn rút lui trước. Có lẽ vì họ đã phạm tội nhiều hơn những người trẻ. Cuối cùng, chỉ còn lại có hai người: Đức Giêsu và người thiếu phụ. Lúc nầy, Đức Giêsu mới ngẩng đầu lên và cùng đối thoại với người thiếu phụ. Ngài hỏi chị ta:

- Những người kia đã đi đâu cả rồi? Không có ai lên án chị sao?

- Thưa Ngài, không có ai, thiếu phụ đáp lại.

- Vậy thì Ta cũng không lên án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa nhé!”

Chúng ta có thể tưởng tượng: lúc đó, người thiếu phụ vui mừng như thế nào? Và chắc chắn chị không quên cảm tạ Chúa và quyết tâm làm lại cuộc đời.

Thưa anh chị em,

Chúng ta đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác. Chúng ta quên đi một câu nói rất có ý nghĩa của người Anh: “Những ai đang sống trong nhà bằng kính thì đừng nên ném đá” (ném đá vỡ kính hết).

Tất cả chúng ta đều đang sống trong những căn nhà bằng kính, bởi vì tất cả chúng ta đều rất mỏng dòn, dễ vỡ, đã không đáp ứng đúng mức đòi hỏi của Thiên Chúa và tất cả chúng ta đều rất cần đến sự tha thứ của Ngài.

Cũng như nhóm đàn ông kia ở Giêrusalem, chúng ta thường tự đặt mình vào hạng những người công chính. Chúng ta sáng mắt nhìn thấy điều sai trái của kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy các lỗi lầm của chính mình.

Tuy nhiên, anh chị em thân mến,

Câu chuyện trên đây không chỉ đề cập đến những kẻ ném đá, những kẻ tự cho mình là kẻ công chính, những kẻ tự đặt mình vào chức vụ bảo vệ nền luân lý công cộng, những kẻ luôn nghĩ rằng tất cả những điều mình làm đều đúng, đều tốt, những kẻ vẫn tự hào rằng mình tốt lành và nhân đức hơn những người khác… Câu chuyện còn đề cập đến chính người thiếu phụ bất hạnh ấy nữa. Đức Giêsu đã không nhắm mắt làm ngơ trước tội ngoại tình. Ngài đã không nói rằng: điều người thiếu phụ đã làm đó chỉ là một chuyện vặt, một chuyện nhỏ mọn, hoặc là một chuyện có tính cách riêng tư không dính líu gì tới ai. Ngài cũng đã không khuyên nhóm người kia hãy bỏ qua chuyện nầy, hoặc hãy chấp nhận mà sống với những yếu đuối của mình, nhưng Ngài đã khẳng định Ngài không lên án thiếu phụ nầy. Nói cách khác, Ngài đã sẵn lòng chấp nhận người thiếu phụ bất hạnh nầy trong chính tình trạng hiện nay của chị – Chị là người có tội đấy-Chị hãy chừa cải, sửa đổi nên người mới.

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa. Lòng Chúa hải hà vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.

Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Có nghĩa là: “Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”.

Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.

7. Chiến thắng sự dữ và tội lỗi – R. Veritas

Người ta kể lại dưới thời các hoàng đế trị vì xưa kia. Cứ sau thánh lễ Phục sinh, bên cạnh cây nến phục sinh cháy sáng, hoàng đế cho thắp thêm một cây đèn lớn khác gọi là “Cây đèn ân xá Phục sinh”. Cho tới khi nào ánh đèn còn cháy, tất cả mọi người có tội nặng đáng xử tử mà đến đặt tay trên cây đèn ấy xưng thú tội lỗi mình thì được ân xá, không phải chịu án phát. Từ một phía cửa hông nhà thờ, các tội nhân xếp hàng dài. Nào là những người cướp của giết người, ngoại tình, phá thai, gian dối, lừa đảo, làm tiền bạc giả. Sau khi đặt tay trên Cây đèn ân xá Phục sinh xưng thú lỗi lầm, công khai trước mặt hoàng đế và đông đảo tín hữu tò mò đến xem, họ sang chiếc bàn bên cạnh ghi tên tuổi và nhận chứng thư tha tội, trong đó có những lời khuyên phải cải tà qui chánh.

Người sau cùng tiến đến Cây đèn ân xá Phục sinh là một phụ nữ trong sắc phục sám hối. Trong số các tín hữu tò mò đứng xem có cả ông chồng, tay cầm tờ đơn tố cáo tội bà vợ và xin hoàng đế đừng khoan hồng đối với bà. Trong nhà thờ im lặng như tờ. Người đàn bà đưa tay lên chạm đến Cây đèn ân xá Phục sinh, bà lớn tiếng thú tội: “Tôi đã phạm tội ngoại tình với tất cả những người đàn ông nào tôi ưa thích. Tôi không xứng đáng được khoan hồng”. Nói xong, bà thổi Cây đèn ân xá Phục sinh tắt ngấm. Rồi bà nhắm mắt nói về đứa con mà bà đã có với một sinh viên, sau cùng bà kết luận: “Tội tôi thì quá lớn không đáng được tha thứ”. Bà mở mắt ra. Thì ô kìa! Cây đèn ân xá Phục sinh đã lại cháy sáng từ bao giờ. Chồng bà đứng gần đó đã dùng tờ đơn tố cáo bà, đốt trở lại Cây đèn ân xá Phục sinh mà chính bà đã thổi tắt. Thấy thế, hoàng đế nghiêm mặt hỏi: “Ngươi là ai mà dám tự tiện thắp Cây đèn ân xá Phục sinh?” Ông ta thưa: “Tâu hoàng đế, hạ thần là chồng của phụ nữ này. Với tờ đơn tố cáo tôi tự tay mình viết, hạ thần đốt bỏ nó trên ánh nến ân xá Phục sinh để lấy lại ánh sáng cho Cây đèn ân xá Phục sinh đã tắt”. Nghe vậy hoàng đế nghiêng mình trước người chồng và nói: “Ngươi đã hành động rất đúng, theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô”.

Không kết án, không vào hùa kết tội người khác, rút đơn tố cáo, bỏ hòn đá xuống đất. Mỗi người hãy nhìn sâu vào trong tâm lòng mình để nhận ra các tội lỗi, lầm lẫn thiếu sót của mình trong cuộc sống. Thống hối ăn năn và cải thiện, đó là sứ điệp mà Giáo Hội trao gởi chúng ta qua các bài đọc hôm nay.

Người đàn bà bị bắt quả tang đang lúc phạm tội ngoại tình như kể trong Phúc Âm theo thánh Gioan, là một ví dụ chứng minh cho chúng ta thấy cung cách hành xử và lòng nhan từ của Chúa Giêsu đối với những người có tội. Chiếu theo luật Do Thái, như ghi trong sách Lêvi chương 20 câu 10 và sách Đệ Nhị Luật chương 22 câu 22: “Phụ nữ có chồng bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình phải bị ném đá cho chết cùng với người đàn ông đang phạm tội ngoại tình với bà”. Đây là cách thức người xưa khử trừ cuộc sống hoang dâm khỏi cộng đoàn. Theo bài Phúc Âm, các biệt phái và những luật sĩ chỉ dẫn đến cho Chúa Giêsu người đàn bà mà thôi. Trong thâm tâm, họ muốn kết tội hai người: người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và Chúa Giêsu, mà họ đang tìm mọi dịp để lên án.

Tuy nhiên, cung cách hành xử của Chúa Giêsu theo cái lôgíc của Thiên Chúa, không theo tâm địa hẹp hòi gian ác và giả hình của con người, lại cho thấy, Thiên Chúa luôn mở ra cho người tội lỗi một lối thoát, lối thoát của cuộc đời hoán cải. Qua cách hành xử của Thiên Chúa đối với người tội lỗi là còn nước còn tát, nghĩa là luôn cống hiến ơn tha thứ và ơn cứu độ cho họ. Không ai biết Chúa Giêsu đã viết trên cát điều gì hay Ngài đang cần phải qui chiếu theo một thứ luật lệ khác: luật lệ của tình yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu không chối bỏ những cái nặng nề và những hệ lụy do cuộc ái tình trong cuộc sống con người. Nhưng Ngài muốn ném cho người phạm tội một sợi dây của lòng trông cậy. Bởi vì đối với Thiên Chúa, quá khứ tội lỗi của con người không quan trọng, điều quan trọng là nỗ lực tìm lại sự trong trắng, thơ ngây, vô tội trong tâm hồn từ giây phút này trở lên. Nói cách khác, trước mặt Thiên Chúa điều quan trọng duy nhất là ý chí hoán cải tâm lòng và cách mạng cuộc sống của chúng ta.

Kiểu cách giải quyết vấn đề của Chúa là một tiếng sét cách mạng quật ngã mọi người hiện diện. Theo sách Đệ Nhị Luật 17,7: “Những ai đã bắt được quả tang người phạm tội ngoại tình, nghĩa là đã chứng kiến tận mắt, thì hãy ném viên đá đầu tiên khai mào cuộc xử kẻ có tội”. Nhưng đây Chúa Giêsu nói: “Ai không có tội, hãy ném đá trước đi”, mà có ai trong gia đình nhân loại là người vô tội đâu? Bởi vì ai trong chúng ta cũng có tội cả. Và phạm tội mỗi ngày, cho nên càng nhiều tuổi thì lại càng phạm tội nhiều. Đủ thứ tội và đủ cỡ, đủ cách: tội lớn, tội nhỏ, tội kín, tội hở. Tâm lòng và thân xác chúng ta rỗ chằng rỗ chịt, và mọi thứ vi trùng tội lớp dưới đội lớp trên, lớp trên đè lớp dưới.

Say giây phút im lặng làm choáng váng mặt mày, mọi người tố cáo người đàn bà ngoại tình bắt đầu bỏ rơi viên đá xuống đất và rút lui có trật tự, già trước trẻ sau. Được phép dạy phải sửa chữa tội lỗi, nhưng mỗi một người phải bắt đầu từ chính mình trước. Nếu Chúa Giêsu đã mở ra cho người đàn bà ngoại tình con đường mới của cuộc sống hoán cải thánh thiện: “Tôi cũng không kết án chị. Hãy ra về và đừng phạm tội nữa”. Thì Ngài cũng chỉ cho tất cả mọi người đã hăng hái tố cáo và đòi ném đá xử tử chị ta một con đường mới, con đường của lòng khiêm tốn, từ nay biết nhận mình là người có tội.

Hãy cảnh giác với lương tâm mình để tìm thấy cái mặt lọ lem của mình, để nhìn thấy tâm hồn đen đủi, xấu xa của mình. Hãy cầm lấy cục đá, không phải để ném người khác mà là để vạch lên ngực, lên tim của mình cho chảy máu ăn năn sám hối, rồi bỏ nó xuống đất. Phải làm điều đó một cách công khai trước mặt mọi người. Nói cách khác, lời nói và cách giải quyết vấn đề của Chúa Giêsu đã khiến cho mọi thứ mặt nạ che giấu gương mặt tâm hồn bệnh hoạn, phong cùi của mỗi người hiện diện rơi xuống đất cùng với viên đá trong tay họ. Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết rằng, chỉ khi nào chúng ta ý thức được tội lỗi yếu hèn của chính mình, chúng ta mới có thể bắt đầu sống trong sạch, vì không còn phải đeo mặt nạ, để đóng kịch, để bênh vực vai trò của chúng ta để khỏi mất mặt nữa. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta hãy biết có một cái nhìn mới để hiểu rằng, một tâm hồn dầu có tội lỗi và xấu xa đến đâu đi nữa, cũng vẫn còn một góc nhỏ xíu tinh tuyền, sẵn sàng rộng mở cho những người biết thương mến họ, và con đường duy nhất giúp tiến vào đó là con đường của lòng kính trọng, cảm thông, chấp nhận và yêu thương.

Đó là phương thế duy nhất giúp con người biến đổi từ bên trong, để bắt đầu một cuộc xuất hành mới ra khỏi tình trạng sống tội lỗi và tiến bước trên con đường công chính, thánh thiện. Cuộc xuất hành mới ấy cũng được tiên tri Isaia nói đến trong chương 43, tình yêu thương mà Thiên Chúa dành để cho dân Israel là tình yêu thương giải phóng khỏi kiếp nô lệ, tôi đòi, đày ải, buồn thương.

Trong lịch sử cứu độ, nước và sa mạc có ý nghĩa đặc biệt. Nước biểu hiệu cho chướng ngại cản bước xuất hành của dân Do Thái, biểu tượng cho mọi sức mạnh chống đối với Thiên Chúa và với con người. Còn sa mạc khô cằn không cây cối, không nước uống, biểu tượng cho sự chết. Nhưng cũng như xưa kia trong lần xuất hành thứ nhất khỏi Ai Cập, Thiên Chúa dùng bàn tay uy quyền của Ngài dẹp nước Biển Đỏ thế nào, thì giờ đây trong lần xuất hành thứ hai khỏi Babylon, Ngài cùng giơ tay dũng mạnh loại bỏ sa mạc như vậy. Nói cách khác, tiên tri Isaia muốn khẳng định với dân Israel rằng, các biến cố lịch sử cho thấy Thiên Chúa chiến thắng mọi chướng ngại, mọi biển sâu, mọi sa mạc mà loài người đã tạo ra với cuộc sống tội lỗi của mình. Nhưng trong lịch sử cứu rỗi, tình yêu thương nhân thứ và chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với con người khi tạo dựng lên loài người sẽ chiến thắng sự dữ và tội lỗi.

Chương trình cứu độ đó Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của từng người trong chúng ta, như thánh Phaolô cho thấy trong thư gởi tín hữu Philipphê, nhắc lại ơn đời đời mà Chúa Giêsu Kitô Phụcsinh đã trao ban cho thánh nhân trong cuộc gặp gỡ trên đường đến thành Đamas xưa kia. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: Lòng tin mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta phải giúp chúng ta sống theo một tâm thức mới, với một cái nhìn mới. Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài phải trở thành trung tâm điểm và là điểm qui chiếu duy nhất, hướng dẫn kiểu cách sống và hành xử của chúng ta. Tâm thức mới ấy phát xuất từ cuộc cách mạng mà lòng tin vào Chúa Giêsu khơi dậy trong tâm lòng chúng ta, nó giúp chúng ta đảo lộn bậc thang giá trị cuộc sống và biết đánh giá mọi sự dưới ánh sáng Tin Mừng mà thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta noi gương Ngài. Cố gắng chạy, nghĩa là sống tâm thức mới ấy trong tươi vui, không nghi ngờ tình yêu của Chúa Giêsu và lời Ngài, không hối hận vì đã từ bỏ cuộc sống và kiểu cách suy tư cũ, không chấp nhận dàn xếp lắt léo với sự dữ và đi ngược lại giáo huấn Tin Mừng của Chúa.

8. Suy niệm của Radio Veritas Asia

THIÊN CHÚA BÊNH VỰC NGƯỜI YẾU ĐUỐI VÀ PHÂN TRẦN SỰ BẤT CÔNG

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)

Theo luật người Do Thái như được trình bày trong sách Lêvi 2,10 thì bất cứ ai phạm tội ngoại tình với một người phụ nữ đã có chồng và bất cứ ai phạm tội ngoại tình với vợ của người khác, thì cả người đàn bà ngoại tình và người đàn ông đó đều bị tử hình. Tuy nhiên về sau trong chiều hướng kỳ thị phụ nữ, người ta bóp méo luật pháp và chỉ ném đá trước người đàn bà ngoại tình, còn người nam ngoại tình thì không bị hình phạt nào cả hoặc chỉ bị phạt một số tiền tượng trưng.

Cử chỉ của Chúa Giêsu trong trường hợp Phúc Âm trên đây gọi là cách mạng đối với tâm thức xã hội và luật pháp thời đó. Ngài bênh vực người yếu và phân trần sự bất công của người phụ nữ phải chịu, cũng như thái độ giả hình của những kẻ muốn trừng phạt người phụ nữ tội lỗi. Trong chiều hướng đó, đoạn Phúc Âm này vẫn giữ được tính cách đặc biệt thời sự ngày nay.

Cũng vì thế, trong Tông thư “Mullieris dignitatem” (Về phẩm giá người phụ nữ), công bố nhân dịp năm Thánh Mẫu năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dành chương V để chú giải về đoạn Phúc Âm này. Sau khi nhắc đến thái độ kỳ thị nữ giới như một hậu quả của tội nguyên tổ, Đức Thánh Cha ghi nhận rằng, theo tường thuật Phúc Âm, Chúa Giêsu đã khơi dậy nơi tâm hồn của những kẻ muốn ném đá người phụ nữ ngoại tình, ý thức về chính tội lỗi của họ. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy Ngài muốn đánh mạnh vào lương tâm và các hành động của con người, đồng thời dường như Ngài muốn nói với những người tố cáo rằng: Phụ nữ này với tất cả tội lỗi của nàng, đã chẳng cho thấy những vi phạm của chính các ông, những bất công nam giới và những lạm dụng của các ông hay sao? Đức Thánh Cha viết: “Đây là một sự thật có giá trị cho tất cả mọi người. Câu chuyện mà Phúc Âm theo thánh Gioan đã kể lại: người đàn bị bỏ một mình, bị phơi bày trước dư luận quần chúng với tội lỗi của nàng. Nhưng sau tội lỗi của riêng nàng, còn có người đàn ông tội lỗi nữa đồng chịu trách nhiệm về tội lỗi đó. Vậy mà tội lỗi của người đàn ông thì không lôi kéo chú ý. Được trôi qua trong im lặng như thế, người đàn ông không có trách nhiệm gì về tội lỗi ngoại tình ấy. Đôi khi người đàn ông còn nhắm mắt trước tội lỗi của chính mình và đã trở thành người tố cáo người khác như Phúc Âm kể lại. Có biết bao lần người nữ đã phải trả giá cho tội lỗi mình như thế và phải đền tội một mình, mặc dầu tội cả hai người phạm chung. Biết bao nhiêu lần người phụ nữ bị bỏ rơi với bào thai trong bụng, vì người cha của thai nhi không muốn chấp nhận trách nhiệm làm cha của mình. Và bên cạnh nhiều bà mẹ độc thân trong xã hội ngày nay, chúng ta còn phải nhớ tới số phận phụ nữ bị trục xuất bào thai của mình rất nhiều, khi vì những áp lực khác nhau kể cả áp lực của người đàn ông tội lỗi tác giả bào thai đó. Dư luận quần chúng ngày nay tìm nhiều cách để xóa bỏ cách thức xấu xa của cuộc phá thai đó, nhưng nhiều khi lương tâm người phụ nữ không thể quên rằng mình đã tước đoạt sự sống của đứa con mình”.

Trong phần kế tiếp, Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự bình đẳng của nam giới và nữ giới, theo ý định nguyên thủy của Thiên Chúa, khi tạo dựng loài người và Ngài kết luận rằng: “Mọi người nam phải nhìn nhận người nữ như một người chị em của mình và không bao giờ được coi người nữ như đối tượng cho mình thỏa mãn và khai thác hoặc như đối tượng của tội ngoại tình trong tâm hồn của mình hay qua hành động bên ngoài”.

9. Dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Cách đây khá lâu, tình cờ tôi đã đọc được một mẩu tin từ hãng tin quốc tế AFP phổ biến một sự việc xảy ra bên Trung Quốc. Và hãng tin quốc tế này lấy tin từ tờ nhật báo Trung Quốc, nói rằng chính phủ mới ra lệnh tử hình cho một người cha vì đã can tội giết đứa con gái của mình mới ba tuổi. Và lý do, vì ông ta muốn có con trai.

Theo luật của Nhà Nước Trung Quốc được thiết lập từ năm 1978, thì mỗi gia đình chỉ được phép có một đứa con mà thôi. Vì thế người cha này là một công chức của nhà nước làm việc trong ngành lâm sản, đã giết đứa con gái của mình mới lên ba tuổi để hy vọng sau đó có thể có được một đứa con trai. Việc làm sát nhân này đã bị tòa án Nhà Nước kết án tử hình vào tháng 11 năm 1988, và hôm mùng 10 tháng 3 năm 1989 thì bản án được thi hành.

Đọc qua bản tin vừa kể, tôi không khỏi bồi hồi xúc động và thấy đây là một thảm trạng gia đình có thể xảy ra bất cứ nơi nào khác trên thế giới này. Thử hỏi ai là người có trách nhiệm trong thảm trạng này? Dĩ nhiên người cha đã vô tâm giết chết đứa con gái mới lên ba. Nhưng thử hỏi, còn ai khác có trách nhiệm khiến cho người cha đã nhẫn tâm hành động như vậy không? Những kẻ có trách nhiệm ca tụng xã hội cho phép phá thai, phải chăng họ không đáng tội chết hơn người cha đã giết đứa con gái của mình mới lên ba tuổi hay sao? Tại sao họ lên án những kẻ khác mà quên lên án chính mình? Phải chăng đây là một thái độ sống giả hình. Thái độ sống giả hình của thời đại mới chúng ta hôm nay không khác gì với thái độ giả hình của những người biệt phái vào thời Chúa Giêsu.

Phúc Âm hôm nay kể lại cho chúng ta: những người biệt phái có quyền thế trong dân Do Thái, họ là những kẻ nắm giữ luật lệ hay đặt thêm những luật lệ cho dân Do Thái, đã gắt gao lên án một người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình và muốn Chúa Giêsu cũng lên án theo. Điểm trớ trêu là chính những người biệt phái này cũng là những kẻ tội lỗi, nhưng họ không kết án chính mình trước mà đi kết án kẻ khác.

Thái độ của Chúa Giêsu mở ra một viễn tượng mới đó là sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng thời cũng muốn cho con người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ của Ngài, nhưng hãy dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống: “Ta không kết án con”. Đó là lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình. “Nhưng từ nay đừng phạm tội nữa”. Mỗi người Kitô chúng ta, đồ đệ của Chúa Giêsu đều ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, dốc quyết canh tân đời sống và noi gương Chúa mà tha thứ cho những lầm lỗi của anh chị em, như chính Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với anh chị em xung quanh, đừng kết án anh chị em nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ anh chị em trở về với Chúa. Hơn nữa mỗi người Kitô chúng ta cần được mời gọi cầu nguyện, cầu nguyện cho người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.

Các vị thánh trong mọi thời đại đã thực hiện điều này. Cầu nguyện cho chính mình và cầu nguyện cho anh chị em xung quanh được ơn ăn năn trở lại, đừng làm phiền lòng Chúa, đừng phạm tội nữa. Cầu nguyện với những hy sinh, cầu nguyện với những đánh tội, hãm mình.

Và trong bài đọc thứ hai hôm nay mà chúng ta vừa nghe qua, trích thơ của thánh Phaolô cũng đề ra cho chúng ta một bí quyết, có thể nói được là bổ túc cho những gì chúng ta mới vừa nói, đó là sống kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, và kể từ nay ngài không nhìn về quá khứ tội lỗi của ngài cũng như của những kẻ khác nhưng hãy nhìn tới tương lai. “Chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được Ngài. Nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳng đằng sau, quên đi quá khứ tội lỗi của mình mà hướng về phía trước hướng về tương lai. Tôi cứ nhắm đích đuổi theo để được đoạt giải ơn kêu gọi của Thiên Chúa đã ban cho từ trời cao trong Đức Giâsu”. Đó cũng là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta, quên đi quá khứ tội lỗi của mình, quên đi quá khứ tội lỗi của anh chị em xung quanh. Để rồi cố gắng tiến lên mãi đạt đến lý tưởng mà Chúa đề ra cho mỗi người chúng ta và sống kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô. “Vì Chúa tôi đành chịu thua thiệt mà coi mọi sự như phân bón để được lợi Đức Kitô và được ở trong Người”.

Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta được luôn luôn sống kết hiệp với Chúa, và từ nay không nhìn về quá khứ của mình nữa nhưng nhìn đến tương lai, để có những dốc quyết mới canh tân đời sống của mình, từ bỏ những tội lỗi, để giữ vững niềm tin mà chúng ta đã lãnh nhận.

10. Hãy về và đừng phạm tội nữa – R. Veritas

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)

“Tin Mừng sự sống”. Đó là tựa đề một thông điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được ký ban hành ngày 25 tháng 3 năm 1995.

Như chính Đức Thánh Cha đã giải thích, đây là một bài suy niệm của ngài về sự sống. Đứng trước nền văn hóa chết chóc đang lan tràn trên thế giới ngày nay, bên cạnh những tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật và ý thức mỗi ngày một gia tăng về nhân quyền, về bình đẳng, về liên đới huynh đệ… Nhân loại ngày nay lại đang đứng trước một đe dọa khủng khiếp nhất, đó là đe dọa của sự tự hủy. Mối đe dọa ấy có lẽ không đến từ chiến tranh, từ khoa học, vũ khí hạt nhân mà chính là từ sự đánh mất ý thức, về sự thánh thiêng của sự sống con người.

Một cách cụ thể chúng ta hãy nghĩ đến nạn phá thai và làm cho chết một cách êm dịu đang lan tràn trong thế giới ngày nay. Hai hành động giết người này đã được luật pháp của không biết bao nhiêu quốc gia nhìn nhận và hợp thức hóa. Cái mâu thuẫn lớn nhất của nhân loại ngày nay chính là, trong khi mạng sống của thú vật càng ngày càng được đề cao thì sự sống của những thai nhi và những người vô phương tự vệ lại càng ngày càng bị khinh rẻ. Điều khủng khiếp nhất chính là những hành động tội ác ấy lại được hợp thức hóa. Hành động xúc phạm đến mạng sống con người được đưa vào pháp luật. Từ nay nhân danh luật pháp do chính mình làm ra, con người tự cho mình có quyền sinh sát trên người khác. Con người dựa vào luật pháp do chính mình làm ra để chối bỏ lẫn nhau, đó là thảm trạng của nhân loại ngày nay.

“Tin Mừng sự sống”. Chọn lấy đề tài này cho thông điệp của ngài, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hẳn muốn ban cho con người thời đại Tin Mừng của chính Chúa Giêsu. Tin Mừng mà Chúa Giêsu mang lại cho nhân loại là Tin Mừng của sự sống, Tin Mừng ấy được cụ thể hóa qua sự tiếp cận thiết thân của Thiên Chúa làm người, với các trẻ thơ, với những người tàn tật bệnh hoạn, với những cô gái điếm, với những người thu thuế tội lỗi, với những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Tin Mừng mà Giáo Hội muốn cho chúng ta lắng nghe hôm nay là một trong những trang cảm động nhất của Tin Mừng sự sống ấy.

Đối với thái độ đầy sát khí của đám đông nhất là của các luật sĩ và biệt phái, Chúa Giêsu đáp lại bằng thái độ của thinh lặng, cảm thông và tha thứ. Đám đông các luật sĩ và biệt phái nhân danh luật pháp để xử lý người đàn bà bị bắt quả tang phạm tôi ngoại tình, còn Chúa Giêsu lại kêu gọi tình thương. Đám đông các luật sĩ và biệt phái đặt mình vào ghế thẩm phán để xét xử người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu lại đặt chính họ vào hàng bị cáo. Đám đông các luật sĩ và biệt phái xây dựng quan hệ giữa người với người trên luật pháp, còn Chúa Giêsu thì nói với họ rằng, tương quan với tha nhân sẽ được xây dựng trên sự cảm thông, lòng tha thứ, tình yêu thương. Và để có thể xây dựng được mối quan hệ yêu thương ấy, thì trước tiên con người phải cảm nhận được chính tình yêu của Thiên Chúa.

Những giây phút thinh lặng khi Chúa Giêsu cúi mình viết trên cát là lúc để cho mỗi người trong cái đám đông hung hãn ấy nhìn sâu vào tận đáy thẳm tâm hồn của mình. Ở đó con người sẽ nhận ra thân phận tội lỗi xấu xa của mình và đồng thời cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa.

Đám đông đã từ từ kéo nhau về sau khi đã nhìn sâu vào trong tâm hồn tội lỗi yếu hèn của mình. Họ ra về chắc chắn với một ý thức mới, không phải ý thức về sức mạnh của luật pháp do con người làm ra, mà về chính thân phận tội lỗi của mình. Ít nhất đó cũng là bước đầu của sự sám hối. Riêng người đàn bà cũng ra về, nhưng ra về với lời vỗ về yêu thương, tha thứ và cổ vũ của Chúa Giêsu: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Đó cũng là lời vỗ về mà Chúa Giêsu đang nói với mỗi người chúng ta. Đó là Tin Mừng của sự sống.

Người đàn bà đang đứng bên bờ vực thẳm của chết chóc và thất vọng, đã được Chúa Giêsu kéo lên và ban cho một sức sống mới, một niềm hy vọng mới. “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Lời Tin Mừng sự sống này cần phải được chúng ta cảm nhận như một lời sai đi, cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa. Chúng ta được sai đi để loan báo, làm chứng và chia sẻ tình yêu ấy với mọi người. Chúa đã ban cho chúng ta một cơ may để bắt đầu lại, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ không ngừng và mang lại một cơ may mới cho người khác. Có sống như thế, chúng ta mới thật sự góp phần vào việc kiến tạo nền văn minh của tình thương, một nền văn minh không phải chỉ dựa vào khoa học kỹ thuật hay luật pháp của con người, mà được xây dựng trên tình yêu và lòng tha thứ.


Lòng thương xót của Chúa
  • Blogger Comments
  • Facebook Comments
Top