Ngày nay sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa vẫn được Giáo Hội tiếp tục thi hành trên khắp thế giới. Biết bao người đã được ơn gọi lãnh lấy sứ vụ đó và đã hân hoan đón nhận, đang thi hành sứ vụ của mình một cách can đảm, nhiệt thành và kiên trì rất đáng thán phục. Họ cũng đang gặp đủ mọi thử thách, chống đối, ghen ghét, hãm hại bởi những người không muốn đón nhận Tin Mừng họ rao giảng. Họ đã sẵn sàng chịu đủ thứ hình khổ và cả cái chết nữa vì sứ vụ chuyển thông Lời Chúa theo gương Đức Kitô. Chúng ta tiếp tục cầu xin Chúa ban sức mạnh tinh thần cũng như thể xác cho họ như Chúa đã ban cho các vị Ngôn sứ, các Tông đồ ngày xưa và cho các vị tử đạo.
Lời Chúa: Gr 1,4-5.17-19; 1Cr 12,31 – 13,13; Lc 4,21-30
Tin Mừng Lc 4,21-30
Hôm ấy, tại hội đường Na-da-rét, sau khi đọc sách ngôn sứ I-sai-a, Đức Giê-su bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình. Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đon. Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a thôi”. Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi – họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa: Chúa nhật IV Thường niên (C)
1. Những người thân
Như chúng ta đã thấy Chúa Giêsu khởi sự công việc rao giảng của Ngài. Thoạt đầu, Ngài đã gây được hứng khởi nơi người nghe. Thánh Luca viết về những hoạt động của Ngài trong lúc này như sau: Danh tiếng Ngài lan tràn cả miền chung quanh. Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Nhưng cũng chính thánh Luca đã cho chúng ta thấy một cách sống động rằng ngay từ điểm khởi đầu này, lời giảng dạy của Chúa Giêsu đã tạo nên những chống đối. Chẳng hạn ngày hôm nay, những người làng Nadarét sau khi đã ca ngợi Ngài, thì họ bắt đầu thắc mắc về Ngài. Họ bàn tán: Ông này hẳn không phải là con bác phó mộc Giuse hay sao? Và từ thắc mắc, họ đi đến chỗ căm thù, thậm chí còn muốn thủ tiêu Ngài, như lời thánh Luca đã viết: Mọi người trong hội đường đều đầy lòng căm phẫn, họ đứng dậy, đuổi Ngài ra ngoài thành và điệu Ngài lên tận triền núi, nơi thành họ được xây cất, cố ý xô Ngài xuống cho chết.
Qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta không khỏi liên tưởng tới lời mở đầu của Tin Mừng theo thánh Gioan, trong đó thánh Gioan cũng đã viết: Ánh sáng đã chiếu soi trong u tối, nhưng u tối không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài. Từ đó chúng ta đi tới hai nhận định cho việc sống đạo.
Nhận định thứ nhất đó là mầu nhiệm làm người và mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu phải chăng chỉ là một? Cuộc khổ nạn ngày thứ Sáu Tuần Thánh và cuộc sống lại vinh hiển ngày phục sinh, chỉ là phần kết thúc của một tiến trình duy nhất, bắt nguồn từ lúc giáng sinh làm người? Thái độ từ chối và chống đối của người Do Thái, không phải chỉ xuất phát từ những tình cảm hời hợt bên ngoài, nhưng bắt nguồn từ một lựa chọn căn bản giữa ánh sáng và u tối, giữa yêu thương độ lượng và hận thù ích kỷ. Chúng ta không thể vừa theo Chúa lại vừa phủ nhận chương trình và đường lối cứu chuộc của Ngài.
Nhận định thứ hai đó là như chúng ta đã biết: Dân làng Nadarét đã tỏ ra cứng lòng, không tin những điều Ngài giảng dạy. Sở dĩ như vậy là vì họ đã quá quen thuộc với bản thân Ngài, gia đình Ngài nên mới có thái độ: Gần chùa gọi bụt bằng anh. Tại Nadarét, Chúa Giêsu bị chống đối không phải bởi những người ngoại đạo, mà bởi những người có đạo, bị oán ghét không phải bởi kẻ thù địch, mà bởi những người họ hàng thân thích.
Hình ảnh những người làng Nadarét của thánh Luca, cũng như những hình ảnh gia nhân không tiếp đón Ngài của thánh Gioan, phải chăng là những hình ảnh tượng trưng cho người tín hữu chúng ta. Bởi vì mặc dù đã biết Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn không tin Chúa. Mặc dù nhận lãnh những ơn lành của Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn lăng nhục và thù ghét Chúa. Mặc dù đã được Chúa thứ tha, mà nhiều lúc chúng ta vẫn xua đuổi Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy, để nhờ đó chúng ta không cứng lòng như những người làng Nadarét, cũng như không xua đuổi Chúa như những gia nhân mà thánh Gioan đã nói đến.
2. Tiên tri
Có người đã mô tả các tiên tri trong Cựu Ước là những kẻ an ủi những ai phiền não, nhưng đồng thời cũng là những kẻ gây phiền não cho những ai tự mãn.
Chẳng hạn như tiên tri Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ dân Do Thái đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang đe doạ từ bên ngoài. Tình thế như vậy làm cho ông rất đau xót vì ông yêu mến tổ quốc và đồng bào của mình. Có lẽ vì thế, Chúa đã kêu gọi ông làm tiên tri cho quê hương mình. Thế nhưng lần nào được kêu gọi ông cũng đáp lại một cách miễn cưỡng vì ông biết rằng làm tiên tri nơi xứ sở mình là điều rất khó. Nhưng rồi ông cũng phải rao giảng cho dân chúng con đường sống còn duy nhất là phải canh tân đời sống, quay trở lại với Ngài. Nghe ông rao giảng như thế, dân chúng đã nổi giận và căm ghét ông, đến ỗi co lần ông đã bị đánh đòn, có lần ông đã bị cột vào trong bao, có lần ông đã bị xô vào đống phân.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nhận được những khó khăn khi lãnh nhận sứ mệnh làm tiên tri ngay trên quê hương mình. Ngài đã từng bị bà còn lối xóm ruồng rẫy, họ định xô Ngài xuống vực thẳm cho chết luôn.
Suy nghĩ về thái độ của dân làng Nagiarét, chúng ta bỗng nhớ tới lời tiên báo của ông già Simêon: Trẻ nhỏ này sẽ nên như dấu chỉ cho người ta chống đối.
Lời tiên báo này đã trở thành sự thật. Nếu dân làng Nagiarét đã từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng buộc Ngài phải xác minh Ngài là Con Thiên Chúa như vậy.
Nếu dân làng Nagiarét đã từng tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn thế nào, thì bọn biệt phái cũng đã kêt án Ngài là dụng cụ của ma quỷ như vậy.
Nếu dân làng Nagiarét đã từng tìm cách giết Ngài thế nào, thì đám đông dân thành Giêrusalem cũng hò hét: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.
Chúa Giêsu quả là đã bị chống đối và bị khích bác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa đã nói với các môn đệ: Nếu thế gian đã ghét Thầy, thì họ cũng sẽ ghét các con.
Bất cứ ai cố gắng sống đúng danh hiệu người Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên có giá trị như thế nào? Tuy nhiên, cho dù chúng ta có bị ghét bỏ, có bị nhạo cười, nhưng cũng đừng vì thế mà từ bỏ nếp sống lương thiện và trong sạch của mình. Lý do thật đơn giản vì Chúa đã từng nói với chúng ta: Các con là muối đất. Các con là ánh sáng. Người ta không đốt đèn rồi để dưới đáy thùng nhưng đặt trên giá đèn. Cũng thế, ánh sáng của các con phải toả ra trước mặt mọi người để họ nhìn thấy việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
Hay như lời thánh Phaolô: Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa mời gọi để toả sáng như những vì sao giữa lòng một thế giới đầy tăm tối.
3. Không được chấp nhận
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Tin là thái độ căn bản trong cuộc sống. Chẳng ai có thể sống mà không tin. Không tin người này nhưng lại tin người kia. Không tin lý thuyết này nhưng lại tin giả thuyết nọ. Thành ra ai cũng phải chọn một niềm tin. Không phải chọn một cách vu vơ, mù quáng, nhưng một cách sáng suốt và tự do.
Điều khó là giữ cho lòng mình được tự do thanh thoát, không bị những định kiến ràng buộc hay tư lợi chi phối, nhờ đó chúng ta dám chọn sự thật, dù sự thật đó làm đổ nhào mọi điều ta nghĩ, và xoay lại hướng đi của cả đời ta.
Có lẽ dân làng Nagiarét ít có thứ tự do này.
Khi Đức Giêsu giảng trong hội đường Nagiarét thân quen, họ đã ngỡ ngàng thán phục trước lời Ngài nói. Hãnh diện biết mấy khi một thành viên trong làng nay được tiếng tăm lẫy lừng khắp miền Galilê! Nhưng tin Đức Giêsu là một ngôn sứ lại là điều họ không làm được.
“Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”
Ký ức của họ vẫn còn giữ nguyên những hình ảnh của Đức Giêsu sống tại đây hơn ba mươi năm qua. Một cuộc sống quá đỗi bình thường! Một ông thợ mộc, con một ông thợ mộc khác. Gốc gác, họ hàng của Đức Giêsu, họ đều nắm rõ. Tiếc là họ đã không thể đi xa hơn.
Cái hiểu biết trước đây khiến họ mãn nguyện, tự hào, và tưởng mình chẳng còn gì để biết thêm về Giêsu.
“Những gì ông đã làm ở Caphácnaum, hãy làm ở đây xem.”
Người làng Nagiarét không tin Đức Giêsu là ngôn sứ. Họ muốn Ngài chứng minh bằng phép lạ. Họ muốn thấy tận mắt, chứ không chỉ nghe nói thôi. Nhưng Đức Giêsu không làm phép lạ để ép người ta tin.
Chính lòng tin đưa đến phép lạ, mà Ngài lại chẳng gặp lòng tin nào nơi người đồng hương. Lòng chai đá cứng cỏi của họ chuyển thành sự phẫn nộ, khi Đức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa được Thiên Chúa sai đến thi ân cho dân ngoại.
Dân làng không giữ được Đức Giêsu cho riêng mình. Khi thấy mình chẳng còn chút đặc quyền, đặc lợi, thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài.
Tin Đức Giêsu là ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa, điều đó chẳng dễ dàng chút nào. Người không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận.
Điều cần thiết là phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn.
Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí.
Hôm nay, chúng ta đã biết, tin và gần gũi Đức Giêsu, nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ tương tự như người Nagiarét: tưởng mình đã múc cạn được mầu nhiệm hay muốn độc quyền giữ Đức Giêsu cho mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, dựa vào đâu để bạn tin người khác? Dựa vào đâu để bạn biết người đó thành thật?
Người dân làng Nagiarét gặp khó khăn khi phải tin Đức Giêsu. Con người hôm nay gặp khó khăn nào khi tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thính ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA.
Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thoạt nghe Chúa rao giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết: “Người đã đến nhà nhưng người nhà không nhận biết Người”. Tại sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc. Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem cho ta niềm tin. Niềm tin đã là khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất: được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng. Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm phép lạ đê giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ khi ma quỷ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi. Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải bắt đầu và bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn chuyện tiên tri Elia ở nhà bà goá Sarepta trong thời hạn hán, làm cho bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xin Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để tôi trở nên tông đồ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2. Bạn khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có đúng không?
3. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được điều gì? Để được may mắn, khỏi tai hoạ, hay để được hiểu biết, yêu mến Chúa?
5. Biết can đảm chấp nhận lỗi lầm
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét. Vì ưu ái người đồng hương, Ngài ưu tiên tỏ cho họ nhận biết vai trò và sứ mạng của Ngài là Người được Thánh Thần xức dầu, được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ân xá cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù tối đón nhận ánh sáng, cho người bị áp bức được tự do và công bố thời kỳ hồng ân của Thiên Chúa… với hy vọng là những người đồng hương cốt nhục của mình được đón nhận ơn cứu độ trước hết.
Thế nhưng đôi mắt của người dân Na-da-rét đã bị che phủ bởi thành kiến nên họ đã không nhận ra vai trò và sứ mạng cao cả của Chúa Giêsu. Với thành kiến rằng Đức Giêsu chỉ là một anh thợ mộc bình thường con của bác thợ Giu-se, bà con thân thích của Ngài đâu có ai sáng giá… nên họ đã không tin Ngài. Họ đã để tuột khỏi tầm tay một cơ hội ngàn vàng, đã đánh mất hồng ân vô giá.
Để cảnh tỉnh họ, Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến cho mình, nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Isaia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Ít-ra-en phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Isaia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ít-ra-en thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xa-rép-ta, miền Xi-đôn.
Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Israen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Na-a-man ngoại giáo, người nước Sy-ri.
Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài khủng khiếp!
Họ oán ghét và nổi cơn phẫn nộ với Ngài chỉ vì Ngài đã chỉ cho họ thấy những sự thật phũ phàng liên quan đến họ. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi Ngài ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành.
Thế mà vẫn chưa hả giận, họ còn kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực, cho Ngài nát thịt tan xương, để vĩnh viễn loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống, vì Ngài đã dám nói lên sự thật, một sự thật phũ phàng, đen tối liên quan đến họ…
Ôi, khủng khiếp thay cơn giận của đám dân thành Na-da-rét!
Hành động như thế là thiếu tinh thần phục thiện, là hèn nhát không dám đối diện với sự thật. Đúng ra, họ phải cám ơn Chúa Giêsu vì Ngài đã giúp họ thấy được sai lầm của mình để sửa chữa cho tốt hơn. Đúng ra họ nên nhìn lại sai lầm của mình thật rõ và những hậu quả do đó mà ra để rồi không còn tái phạm nữa.
Tiếc thay họ đã đi vào vết chân của cha ông họ nhưng còn tồi tệ hơn. Cha ông họ bạc đãi các tiên tri, còn chính họ thì toan giết hại Con Thiên Chúa.
Thế nhưng hôm nay soi lại bản thân, chúng ta cũng thấy đôi khi mình cũng đi theo vết chân đó. Khi có ai đó chỉ cho ta thấy những lầm lỗi khuyết điểm của chúng ta, những sự thật đen tối về bản thân ta, thì thay vì cám ơn người đã chỉ bảo cho mình điều hay lẽ phải, chúng ta lại lồng lên như một thú dữ bị thương, gầm lên dữ dội và có thể có thái độ hung hãn đối với người đã vạch ra lầm lỗi của mình. Thế rồi mình cứ cố chấp trong tội lỗi của mình. Và như thế, chúng ta cứ mang thói hư tật xấu xuống mồ và sẽ không bao giờ biết cải thiện. Thật đáng tiếc lắm thay!
Nếu ngôi nhà chúng ta bén lửa, bỗng có người phát hiện và báo cho ta biết để chữa cháy, thì hẵn là chúng ta sẽ rất biết ơn người ấy và khẩn trương chữa cháy cho ngôi nhà.
Còn nếu trong hoàn cảnh đó, thay vì cám ơn và lo chữa cháy, chúng ta lại quay ra căm giận, hành hung người báo cháy cho mình thì thật là điên rồ không thể chấp nhận được.
Thói hư tật xấu và những đam mê tội lỗi cũng là những ngọn lửa âm ỉ đốt cháy đời mình mà chúng ta không hay biết. Vậy nếu có ai đó báo cho chúng ta biết lỗi của mình, tức là báo cho biết có ‘lửa’ đang bén vào ‘căn nhà cuộc đời’ của mình, thì đừng phẫn nộ với người đó như người dân thành Nadarét năm xưa. Cần biết ơn họ sâu sắc vì nhờ họ cảnh báo mà chúng ta biết được những ‘ngọn lửa’ lầm lỗi, âm ỉ đốt cháy cuộc đời mình, để rồi cấp tốc cứu đời mình khỏi cháy.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho Lời Chúa soi dọi vào những ngóc ngách đen tối trong tâm hồn chúng con để vạch cho chúng con thấy những sự thật đen tối trong đời mình.
Xin cho chúng con can đảm lắng nghe những lời phê bình chân thực của người khác mà không tìm cách biện minh hay chống chế.
Xin cho chúng con dám nhìn thẳng vào những thói xấu của mình, gọi đúng tên chúng, quan sát cách vận hành hay biểu lộ của chúng qua hành vi, lời nói, và cách cư xử hằng ngày của chúng con…
May ra lúc đó, chúng con mới có thể cải thiện và đổi đời.
6. Ta về ta tắm ao ta – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Theo báo chí nhận xét: “Tết năm nay (2010) lượng trái cây của Trung Quốc nhập về giảm mạnh. Các năm trước, đến thời điểm này, hàng trái cây Trung Quốc đã chất hàng ngàn tấn tại chợ nhưng năm nay thì lại chưa thấy gì”. Có người còn độc miệng nói rằng: các loại trái cây của Trung Quốc chủ yếu là lê, táo, nho… màu đẹp, bóng, để được lâu (khoảng tháng rưỡi) nên một số người mua để cúng chứ không dám ăn. Không chỉ trái cây nhưng rất nhiều mặt hàng Trung quốc đến nay người dân đã tẩy chay vì hàng kém chất lượng, nhất là lại chứa nhiều độc tố. Điều đó dẫn đến một làn sóng trở về với dân tộc: “Ta về ta tắm ao ta – Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Thực vậy, với xu hướng xính ngoại, lâu nay nhiều người không dùng hàng Việt. Thích dùng hàng ngoại. Hậu quả là hàng ngoại kém chất lượng, quá date, hàng giả… tràn ngập thị trường Việt Nam. Điều này không chỉ dừng lại ở hàng hóa mà ngay cả trong vấn đề hôn nhân cũng vậy. Nhiều cô gái thích lấy chồng ngoại. Đến nỗi có cả một thị trường tuyển chọn cô dâu. Nhưng có mấy ai lấy chồng ngoại được yên bề gia thất? Có mấy ai thực sự hạnh phúc với hôn nhân thiếu vắng tình yêu?
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng từng cay đắng để thốt lên rằng: “không một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”. Người ta dễ “gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Người ta xem thường đồng hương. Dù biết rằng tình đồng hương rất cần vì “tối lửa tắt đèn có nhau”. Dù biết rằng kẻ láng giềng rất cần thiết, cần thiết hơn là anh em ruột thịt mà ở xa, như lời cha ông đã nói: “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Thế nhưng, thực tế cho thấy, người hàng xóm lại dễ mất lòng nhau. Người hàng xóm lại dễ ganh tỵ với nhau. Thay vì sống với nhau để mang lại sự chia sẻ, cảm thông, nhưng lại gây sóng gió cho nhau. Có mấy ai ở bên nhau mà không lời qua tiếng lại? Có mấy ai ở bên nhau mà đùm bọc lấy nhau như là bí với bầu “tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”? Chúa Giêsu cũng từng bị đồng hương tìm cách loại trừ. Đã có lần người ta cho rằng Người đang bị mất trí. Chính vì cái nhìn thiển cận và đầy thành kiến của người đồng hương nên Chúa Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào nơi quê hương mình. Hôm nay, sau thời gian dài, Ngài đi rao giảng và làm nhiều phép lạ, Ngài trở về dưới cái nhìn xem thường của đồng hương. Họ không tin một Giêsu con bác thợ mộc lại có thể làm nhiều phép lạ như lời đồn. Nói đúng hơn, là họ không thể chấp nhận sự thật về con người Giêsu mà họ đã biết từ khi ấu thơ, nay lại có thể có những khả năng phi thường như vậy. Họ đã bị vấp phạm vì Người. Họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, nhưng Người đã băng qua giữa họ mà đi.
Vâng, cuộc sống của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao khi người người biết tôn trọng lẫn nhau, biết cảm thông, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng, khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn, hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái, bao dung. Cuộc sống sẽ thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết trân trọng những thành quả, những đóng góp của anh em, thay vì ghen ghét, dửng dưng.
Ước gì mỗi người chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình. Vợ chồng cần có nhau để bổ túc và mang lại hạnh phúc cho nhau. Con cái cần đến cha mẹ để nương nhờ cậy trông. Hàng xóm cần đến nhau để “tốt lửa tắt đèn có nhau”. Và một khi đã nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình, thì hãy sống tôn trọng và kính trọng lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng cuộc sống cho nhau những niềm vui và hạnh phúc. Amen
7. Mở rộng tâm trí – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đức Giêsu ám chỉ Người đến khai mạc thời cứu độ muôn dân hằng mong đợi. Chúa thừa biết những phản ứng ít nhiều công khai của đám thính giả. Chúa nói lớn ra điều họ nghĩ thầm và lẩm bẩm trong miệng. Có hai khó khăn làm họ bực mình. Nặng óc địa phương, họ bất bình thấy Chúa làm những phép lạ tại những miền khác được dư luận rộng rãi đồn đại. Họ nghĩ, công cuộc cứu nhân độ thế thần kỳ của Chúa phải khởi đầu tại nơi sinh quán mới phải. Họ đâm ra ngờ vực con người mà họ biết rõ lai lịch, tuy họ quý mến, nhưng trong con ông Giuse và bà Maria họ không nhận ra hình ảnh Đấng Messia. Chúa cho họ thấy một tâm tình khô cứng như thế thật nghèo nàn. Tâm hồn không thuần khiết, trí óc mắc bệnh thiên kiến thì sao hiểu được ý nghĩa một dấu chỉ, cho dù là dấu chỉ phi thường tới mức nào. Người xung quanh có thể đem đến cho chúng ta một sứ điệp, nếu chúng ta không biết đến hoặc không thừa nhận giá trị của họ chẳng phải là thái độ hẹp hòi ư? Than ôi, ngoại trừ vài ba trăm người, toàn dân Do Thái đều giống người Galilê và không biết nhận diện được Đấng Messia đã sinh ra giữa lòng dân tộc. Từ đó xảy ra hiện tượng Tin Mừng lan tràn tới các dân tộc ngoại chủng, nghĩa là trên khắp hoàn vũ.
Đoạn Phúc Âm gợi ra hai câu hỏi:
1) Chính chúng ta chẳng mắc cái bệnh thành kiến như người Galilê sao?
Gặp dịp, chúng ta cũng dễ dàng đưa ra một nhận xét: “Ông này, ông nọ, tôi biết lắm?”. Cách suy nghĩ cư xử ấy là bằng chứng rằng chúng ta thật sự chẳng biết gì về người ấy. Trong trường hợp này, sự hiểu biết của chúng ta về tha nhân không phải là một sự hiểu biết thông cảm, khả năng đón tiếp của chúng ta giống như một động mạch bị cứng lại, tắc nghẽn. Vậy mà sự hiểu biết của Thiên Chúa về chúng ta thì khác xa biết chừng nào. không bao giờ Thiên Chúa nghĩ rằng chúng ta mãi mãi ở trong một trạng thái nào đó, giữ mãi nguyên trạng đó. Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta bao giờ cũng có khả năng cải tiến, có thể trở nên tốt hơn, và Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta tiến bộ. Như vậy, phải chăng chúng ta nên cố gắng có một nhận định về kẻ khác giống như Chúa nghĩ về chúng ta?
2) Chúng ta có phòng ngừa bệnh thiên kiến không, vì nó cản trở sự phát triển đức tin của chúng ta?
Dân chúng Galilê tin vào Thiên Chúa và mong đợi Đấng Messia. Thiên kiến làm mờ mắt họ, không nhận ra Đức Giêsu đến thành toàn niềm tin và mong đợi của họ. Vậy mà chúng ta biết rằng tiến trình của đức tin luôn luôn vấp phải những bất ngờ khiến người ta bối rối. Đức tin sống động không ưa thứ tư tưởng đặt thành hệ thống và những việc làm theo thói quen máy móc. Thanh luyện tâm trí, chuẩn bị tâm trí sẵn sàng nghênh tiếp Thiên Chúa là một trong những yêu cầu chủ yếu của sự tiến bộ trong đức tin. Theo quan điểm ấy, điều cực kỳ quan trọng là ngày nay người Công giáo phải chuẩn bị tâm trí đón nhận những ân huệ chưa hề có trước nay, phát xuất từ Công đồng Vaticanô II. Trong niềm tuân phục nghiêm cẩn và triệt để những huấn lệnh của Giáo Hội, người Công giáo phải cầu nguyện, hành động và suy nghĩ theo những chiều hướng Công đồng mở ra cho các tín hữu.
8. Để yêu như Đức Kitô yêu – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Một thiếu niên đã ném những cái túi ra xa lộ trước mặt nhà của hắn ta, hắn ta mất một trong những kiếng sát tròng của mình, hắn ta tìm kiếm nhưng không tìm thấy nó. Hắn vào nhà và nói: “Bố ơi con mất kiếng sát tròng rồi và con không tìm thấy nó”. Cha của cậu ta đứng dậy rời khỏi tờ báo và đi ra ngoài, một lúc sau thì ông trở lại với cái kiếng sát tròng. Đứa con trai kinh ngạc: “Cha ơi làm sao Cha tìm thấy nó?”. Nó hỏi, cha nó trả lời: “Mày tìm kiếm một miếng plastic. Còn tao, tao tìm kiếm vì một trăm năm mươi đô”.
Khi chúng ta không nắm vững ý nghĩa đúng của những giá trị, chúng ta có thể thất bại trong việc tìm thấy những thực tại quan trọng của đời sống. Đó là lý do vì sao mà nhiều người trong bài Phúc Âm hôm nay đã từ bỏ Chúa Giêsu. Họ không thể chấp nhận được một thanh niên sinh đẻ tại đây là Đấng Mêsia của họ, họ bỏ sót những gì thật sự là quan trọng. Đối với họ Chúa Giêsu không khác gì một miếng plastic.
Một điều gì đó cũng tương tự như thế xảy ra ở Corintho và Thánh Phaolô đã viết thư cho tín hữu ở đây. Họ đã trở nên say mê bởi những món quà đặc sủng, một số có thể nói những ngôn ngữ khác nhau, số khác cắt nghĩa được những ngôn ngữ đó, một số được đặc ân chữa lành, một số khác được nói tiên tri. Những đặc ân này thì tốt cho dân chúng, nhưng những người Corintho thì thất bại trong việc nắm bắt được giá trị của đặc ân lớn nhất đó là đặc ân tình yêu.
Đó là lý do vì sao Thánh Phaolô nói với họ: “Tôi sẽ trình bày cho các bạn biết điều vượt trên những điều đó”. Đó là con đường tình yêu. Nhưng với Thánh Phaolô, tình yêu không chỉ hấp dẫn hoặc không đơn giản chỉ là lý thuyết. Ngài không nghĩ về một tuần trăng mật hay một tình yêu lãng mạn. Đối với thánh nhân, tình yêu là thực tế, là hiện diện nơi trái đất này, là diễn ra ngày này qua ngày nọ khi giao dịch với những người khác.
“Tình yêu thì tử tế”, thánh nhân có thể đặt nó một cách đơn giản và trực tiếp hơn không? Chúng ta phải tử tế với nhau nên mới nói: “xin vui lòng”, “cám ơn” hay “xin lỗi”. “Tình yêu thì kiên nhẫn”. Thật khó để mà luôn luôn kiên nhẫn với những người mà chúng ta cùng sống hoặc làm việc, nếu họ không làm cho thần kinh chúng ta căng thẳng thì cũng làm phiền chúng ta bởi những điều mà chúng ta không thích. Tình yêu thì không ghen tỵ. Tình yêu thì không làm bộ làm tịch. Tình yêu thì không thô lỗ. Tình yêu không nói lời hư từ. Mọi đề mục trong danh sách của thánh nhân đều là thực tế. Trên tất cả, tình yêu là không kiếm tìm chính mình. Tình yêu luôn luôn quảng đại và không ích kỷ. Cuối cùng, tình yêu không bao giờ thất vọng. Tình yêu thật sự không chỉ ở giữa người chồng và người vợ, để tốt hơn hoặc xấu hơn, để giàu hơn hoặc nghèo hơn, lúc bệnh hoạn hay khi khỏe mạnh.
Những tác giả thiêng liêng đã nhận thấy nơi thư của Thánh Phaolô từ “tình yêu” có thể được thay thế với tên “Đức Kitô”. Đức Kitô thì kiên nhẫn, Đức Kitô thì tử tế, Đức Kitô không nói lời hư từ, Đức Kitô không tìm kiếm chính mình, Đức Kitô thì không bao giờ thất vọng. Chân lý này giúp chúng ta nhận thấy lý tưởng cao vời của một tình yêu thật sự và chúng ta sẽ không đạt được nó nếu dựa vào chính chúng ta. Thánh Thể là ý nghĩa để chúng ta lớn lên trong tình yêu giống như Đức Kitô. Chúng ta lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin biến đổi con và những tình yêu của con. Xin giúp con yêu mến như chính Chúa yêu. Xin giúp con mỗi khi con gặp khó khăn”.
Thánh Phaolô đã nhận biết có ba nhân đức lớn lao là đức tin, đức cậy và đức mến. Khi chúng ta lên thiên đàng chúng ta không còn cần đến đức tin, bởi vì chúng ta đã thấy Thiên Chúa diện đối diện. Và cũng không còn cần đức cậy bởi vì chúng ta đã đạt được mục đích của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ có nhân đức lớn hơn mọi nhân đức; chúng ta sẽ có tình yêu. Chúng ta sẽ bắt đầu từ bây giờ cho đến đời đời, bởi việc cầu xin và đem ra thực hành một tình yêu giống như Đức Kitô là yêu thương anh em.
9. Thân phận ngôn sứ
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ)
Có người đã mô tả các ngôn sứ trong Kinh Thánh như những người an ủi những ai phiền não và cũng là những người gây phiền não cho những kẻ giàu sang, tự mãn. Chẳng hạn như ngôn sứ Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ Israel đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang hùng mạnh đe dọa từ bên ngoài. Tình hình như thế làm cho Giêrêmia hết sức đau xót vì ông yêu tổ quốc và đồng bào mình. Có lẽ vì vậy mà Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho đồng bào của ông. Nhưng lần nào được Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm ngôn sứ nơi quê hương mình rất là khó khăn. Nhưng rồi Giêrêmia phải giảng, ông tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp.
Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên: “Ông nội Giêrêmia nầy dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy?”. Tình trạng căm ghét ngày càng dâng cao đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn Giêrêmia, lần khác thì cột ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy khi lãnh nhận sứ mạng làm ngôn sứ ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị bạn bè và láng giềng ruồng rẫy. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép Rửa từ sông Giođan trở về. Khi Chúa đứng lên tuyên bố với đồng bào đồng hương rằng Thần Khí Chúa ngự xuống trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh, thì lập tức họ cảm thấy khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc và dân chúng xầm xì bàn tán với nhau: “Anh ta không phải là con ông Giuse sao? Anh ta chẳng phải là một người nghèo khổ trong làng Nagiareth sao? Anh ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận mình là ngôn sứ? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là Đấng Thiên Sai chứ không phải là tên mạo nhận?”. Lời xầm xì càng lúc càng lớn và chẳng bao lâu đám dân bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm chế được nữa. Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng như sau: “Dân chúng đứng dậy kéo Chúa Giêsu ra khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô Ngài lộn đầu xuống dưới. Nhưng Ngài đã bước qua giữa họ và bỏ đi nơi khác”.
Nếu đọc tiếp Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đi tiếp tới tận Giêrusalem. Trên con đường ấy, Ngài sẽ tiếp tục bị người Do Thái xô đẩy. Cuối cùng họ lôi được Ngài lên thập giá trên đồi Golgotha, xô được Ngài xuống mồ. Nhưng Ngài lại chỗi dậy từ trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài: đem lại ơn cứu độ cho muôn dân. Ngài còn sai các môn đệ tiếp tục con đường của Ngài: đi làm chứng cho Ngài đến tận cùng trái đất.
Bài mô tả của Thánh Luca về những khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu gặp phải tại Nagiaret khiến cho người Kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như bị “té cái bịch” xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về kinh nghiệm chua chát đó, chúng ta bỗng nhớ lại những lời phiền não cụ già Simêon đã thốt ra khi Chúa Giêsu được dâng vào đền thánh: “Trẻ nầy… là một dấu chỉ cho người ta chống đối” (Lc 2,34). Lời nói nầy sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của Chúa Giêsu. Nếu dân làng Nagiaret từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là Ngôn sứ thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel cũng buộc Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy. Nếu dân làng Nagiaret từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào thì bọn Biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỷ y như thế (x. Mt 12,24). Và nếu dân làng Nagiaret đã từng cố công tìm cách giết Chúa Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem cũng hò hét khản cổ: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!” y hệt như vậy. Thực sự mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác. Lời tiên tri của cụ già Simêon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài.
Cùng với Giêrêmia, Chúa Giêsu đã là gương mẫu cho các sứ giả Tin Mừng hôm nay. Phải luôn luôn ý thức về sứ vụ mang Lời Chúa của mình, biết rõ những khó khăn, thử thách và nguy hiểm sẽ gặp, nhưng vẫn một lòng trung thành hòa tất sứ vụ, liều chết vì sứ vụ Chúa đã trao phó để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Ngay nay sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa vẫn được Giáo Hội tiếp tục thi hành trên khắp thế giới. Biết bao người đã được ơn gọi lãnh lấy sứ vụ đó và đã hân hoan đón nhận, đang thi hành sứ vụ của mình một cách can đảm, nhiệt thành và kiên trì rất đáng thán phục. Họ cũng đang gặp đủ mọi thử thách, chống đối, ghen ghét, hãm hại bởi những người không muốn đón nhận Tin Mừng họ rao giảng. Họ đã sẵn sàng chịu đủ thứ hình khổ và cả cái chết nữa vì sứ vụ chuyển thông Lời Chúa theo gương Đức Kitô. Chúng ta tiếp tục cầu xin Chúa ban sức mạnh tinh thần cũng như thể xác cho họ như Chúa đã ban cho các vị Ngôn sứ, các Tông đồ ngày xưa và cho các vị tử đạo.
Chúng ta cầu xin cách riêng cho những người đã lãnh sứ vụ mang Lời Chúa, vì lý do nầy hay lý do khác mà sợ hãi, muốn tháo lui, muốn nín thinh… biết nhìn vào gương của Giêrêmia, của Đức Giêsu, của các Tông đồ và bao nhiêu người đã và đang hết sức trung thành với sứ vụ của mình trong đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần.
Và chính chúng ta nữa, thưa anh chị em, chúng ta cũng được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô khi chúng ta được xức dầu trong Bí tích Rửa Tội, khi chúng ta được trở nên thành phần của Giáo Hội truyền giáo; vì thế chẳng những chúng ta chỉ nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa cho mình mà thôi, nhưng còn phải để tâm đem Lời Chúa, những giáo huấn của Lời Chúa, của Giáo Hội đến cho những người chung quanh, nhất là những người trong gia đình, hầu thánh hóa xã hội chúng ta đang sống.
Hạnh phúc của chúng ta là còn đang được nghe Tin Mừng của Chúa qua tiếng nói của các sứ giả Ngài đã chọn và sai đi. Ước chi chúng ta biết mau mắn, chăm chú nghe Lời Chúa, suy nghĩ và đem áp dụng vào đời sống thường nhật. Chớ gì chúng ta biết thay đổi đời sống, biết xây dựng cuộc sống của chúng ta trên nền tảng Lời Chúa, trên giáo huấn của Giáo Hội.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu:
“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước nhữn gánh quá nặng đè lên chúng con.
Xin giúp chúng con là muốn ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin hãy giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối nầy”. Amen.
10. Loại bỏ vị ngôn sứ – McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. BỊ NGƯỜI THÂN YÊU LOẠI BỎ
Sau nhiều năm rời bỏ ngôi làng nơi ông đã chào đời ở Transkei, Nelson Mandela đã trở về thăm quê hương. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư và sống ở Johannesburg. Sau này ông đã viết về cuộc thăm viếng đó: “Không có gì giống như khi ta trở về một nơi vẫn không thay đổi để tìm lại những con đường trong đó chính bạn đã đổi thay. Chốn cũ tiếp tục như trước đây, không đổi khác với khi tôi lớn lên ở đó. Nhưng tôi nhận ra rằng quan điểm của tôi và thế giới quan của tôi đã tiến triển”. Thật vậy, ông đã nói điều đó đúng lúc ông trở về quê hương, ông không thể sống ở đó nữa –nó trở nên quá nhỏ đối với ông.
Đức Giêsu đã trở lại Nadaret và với dân làng. Người đã lớn lên ở giữa họ. Người cũng muốn đem lại cho họ những ơn ích của Người. Họ là những người biết rõ Người. Hẳn bạn nghĩ rằng họ sẽ đánh giá Người cao nhất. Đáng buồn là họ không tin Người.
Quang cảnh mà bạn có về một nhà thờ lớn thì một khoảng cách rất khác với quang cảnh khi bạn ở thật gần. Từ một khoảng cách, ngôi nhà thờ đứng rực rỡ trong khung cảnh xung quanh. Bạn có thể nhìn thấy những đường nét, hình thể và vẻ đẹp của nó. Nhưng khi ở thật gần, bạn thấy toàn là bụi bẩn và rạn nứt.
Một điều tương tự xảy ra với người ta. Một người không bao giờ là một anh hùng với những người thân. Một thiên tài dường như không được chính bạn bè mình khám phá. Những người ở gần phải chịu đựng vì các khuyết điểm và giới hạn quá rõ ràng. Những người ở xa, trái lại, được sự quý trọng cổ vũ vì chỉ những đức hạnh của người ấy được thấy rõ.
Nhưng điều đã xảy ra với Đức Giêsu ở Nadaret còn sâu xa hơn thế. Không phải chỉ vì họ không đánh giá đúng Đức Giêsu. Họ khước từ Người. Tại sao? Bởi vì Người đã chỉ ra sự thiếu đức tin của họ và nói với họ rằng dân ngoại còn cởi mở với Thiên Chúa hơn họ. Những ơn ích từ lời hứa trong Giao Ước không có ý nghĩa là tất cả.
Đức Giêsu đã chịu đựng số phận của mọi ngôn sứ –bị dân của Người khước từ. Lời ngôn sứ không phải để làm vui lòng người ta, nhưng để nói lên sự thật mà người ta không muốn nghe, sự thật mà người ta thường che đậy. Nhưng động lực khiến Đức Giêsu nói lên sự thật là lòng thương xót của Người.
Người phải làm gì? Hẳn Người có thể nói: “Tôi đã chán họ! Tôi đã chán mọi người. Vì vậy tôi sẽ rút lui vào một cái lều trong rừng và để cho cỏ dại mọc quanh trên mặt đất”.
Hoặc Người có thể nói: “Họ muốn gì nào?”. Và khi đã tìm ra điều họ muốn, Người có thể xúc tiến cho họ điều đó. Nhưng trong trường hợp này, ơn đặc biệt mà Người muốn cho họ và họ hết sức cần sẽ bị bỏ mất.
Sau cùng, Người có thể cố gắng tìm ra một số ít người sẵn sàng đón nhận điều Người muốn cho họ. Nếu Người tìm được ít người đó. Người có thể cho họ điều đó tuỳ theo khả năng họ đón nhận. Đó là điều Người đã chọn để thực hiện.
Bị những người thân quen của mình khước từ là một việc tổn thương sâu sắc. Đức Giêsu đã đau buồn bởi những điều đã xảy đến với Người ở Nadaret, nhưng Người đã không trở nên cay cú và chôn vùi những ân huệ của Người. Người đã làm điều Người có thể làm cho những kẻ đã tin Người ở Nadaret, và rồi Người mang những ân huệ của Người đi nơi khác.
Suy Niệm 2. SỰ ƯU TIÊN CỦA ĐỨC MẾN
Có một dây liên kết giữa đức tin và đức mến. Có một câu chuyện minh hoạ cho điều ấy nói về George Herbert, một thi sĩ Anh quốc, một linh mục và nhạc sĩ nghiệp dư. Một ngày nọ, trên đường đi đến một buổi họp về nhạc với một số bạn bè, ông gặp một người nghèo bị ngã ngựa. Cả hai, người và ngựa lâm vào cảnh hiểm nghèo và cần gấp sự giúp đỡ.
Herbert cởi áo dài tu sĩ và giúp cho người ấy ra khỏi lưng ngựa và đứng dậy trước khi lên ngựa trở lại. Rồi ông cho người nghèo ấy một món tiền để mua nước giải khát cho cà người và ngựa. Sau đó, ông lại tiếp tục cuộc hẹn gặp bạn bè.
Dĩ nhiên, ông đã giữ cho mình rất sạch sẽ và chỉnh tề. Vì thế khi ông quay lại với đôi tay bẩn và áo quần dính đầy đất, các bạn ông kinh ngạc. Nhưng khi ông nói với họ về nguyên nhân của điều đó, một người bạn tỏ ý không tán thành việc ông để mình liên luỵ vào một việc dơ bẩn như thế.
Nhưng ông đáp lại: “Suy nghĩ về điều tôi đã làm sẽ giống như âm nhạc đến với tôi lúc nửa đêm. Nếu bỏ đi nó sẽ tạo ra một sự bất hoà trong ý thức của tôi. Bởi vì nếu tôi bắt buộc phải cầu nguyện cho mọi người trong cơn hoạn nạn, thì chắc chắn rằng tôi bắt buộc phải đi xa hơn là thực hành những gì tôi cầu nguyện”. Rồi ông nói tiếp: “Giờ đây, chúng ta so dây đàn đi”.
Trong Bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô cho chúng ta một mô tả đẹp nhất về đức mến từ trước tới nay. Ngày nay tình yêu (đức mến) là từ ngữ được dùng nhiều nhất. Nhưng điều mà nền văn hoá chúng ta gọi là tình yêu trong các bản nhạc và phim ảnh thường không có gì là tình yêu cả, nó là sự đối lập của tình yêu. Nó chỉ là ước muốn làm chủ hoặc chiếm hữu.
Ngày nay có nhiều người hoài nghi về sự hiện hữu của tình yêu chân chính. Họ không tin có lòng nhân ái nào mà không bị hoen ố bởi tư lợi. Một lý do của điều ấy là ngày nay chúng ta có sự hiểu biết tốt hơn về tính chất phức tạp trong bản chất con người và sự pha tạp của nhiều động lực đàng sau mỗi việc chúng ta làm.
Thánh Phaolô hiểu rõ những động lực pha tạp đàng sau những việc người ta làm. Ông hiểu người ta có thể thực hiện những hy sinh to lớn như thế nào, dù rằng những hy sinh không có giá trị bởi vì những động lực để thực hiện chúng đều do tư lợi.
Nhưng thánh nhân vẫn tin vào khả hữu của đức yêu thương và đó là trung tâm điểm của người Kitô hữu. Điều mà ông đề nghị trong sự mô tả đức yêu thương rõ ràng là một lý tưởng. Một lý tưởng giống như một ngôi sao. Dù chúng ta không bao giờ có thể đạt đến, nó vẫn luôn hướng dẫn chúng ta. Nhưng điểm chính yếu mà thánh Phaolô đưa ra là sự ưu tiên của đức yêu thương trong đời sống của một Kitô hữu. Chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận sự yếu đuối và thất bại của chúng ta mà không tức giạn và thất vọng.
Khi được đức yêu thương chiếm hữu, người ta sẽ được tràn đầy quyền năng mà người ta không thể từ chối, đó là quyền năng làm bất cứ việc gì, đương đầu với bất cứ điều gì, chịu đựng bất cứ việc gì cho con người hoặc sự việc mà người ta yêu mến.
Yêu thương, nhân từ, bác ái, làm việc vì người khác –đó là những phẩm chất chủ yếu. Đức yêu thương không bao giờ phai tàn! Những sự việc khác phai nhạt và qua đi, nhưng đức yêu thương tồn tại mãi. Nếu một người yêu thương thật sự thì người ấy cũng có được mọi nhân đức khác.
Đức tin, đức cậy và đức yêu thương (đức mến) là ba nhân đức lớn. Chúng còn mãi nhưng lớn nhất là đức yêu thương. Mọi sự việc qua đi, nhưng lời nói yêu thương, việc làm yêu thương không bao giờ qua đi.