2 Ảnh

16.2.13

Chúa Nhật I Mùa Chay (C)


Chúa Nhật I Mùa Chay (C): Các bài chú giải và suy niệm Lời Chúa
15.02.2013

Đặc biệt trong Năm Đức tin này, chúng ta để ý đến những cám dỗ liên hệ đến đức tin. Trong những cám dỗ Chúa Giê-su chịu, đức tin luôn luôn là đề tài Xa-tan tấn công Người dưới những chiều kích khác nhau. Nó cố thuyết phục Người thay thế niềm tin vào Thiên Chúa bằng niềm tin vào quyền lực, tiền tài và danh vọng. Nó xúi giục Người hãy hành động mọi sự theo ý riêng thay vì thi hành kế hoạch của Chúa Cha. Chúng ta có nhiều cám dỗ đức tin. Nhưng có lẽ cám dỗ đức tin thông thường nhất, đó là không tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện tốt nhất khi chúng ta bị cám dỗ là: “Con tin! Nhưng xin Chúa giúp lòng tin yếu kém của con!” (Mác-cô 9:24).

Chúa Nhật I MC – Năm C
Các bài chú giải và suy niệm Lời Chúa

Lời Chúa: Đnl 26,4-10; Rm 10,8-13; Lc 4,1-13


Sau khi chịu phép rửa, Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. 2 Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. 3 Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!” 4 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”

5 Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. 6 Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. 7 Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” 8 Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”

9 Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! 10 Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. 11 Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” 12 Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”

13 Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.


Bài 1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: con Thiên Chúa và đối thủ của Thiên Chúa

1- Ngữ cảnh

Các chương Lc 1,5–4,13 giới thiệu song song Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Mục đích của những chương này là nối kết “những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta” (1,1) với lịch sử của Israel: trong việc chuẩn bị, trong cuộc chào đời và trong những hoạt động công khai đầu tiên của Gioan và Đức Giêsu, rõ ràng là Thiên Chúa đã nhớ đến các lời hứa, đã lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Ngài và đã quyết định can thiệp để cứu giúp họ quá mức họ mong chờ. Lô-gích hoàn tất–vượt quá, chúng ta có thể tìm thấy lại trong phần tường thuật hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (Lc 4,14–9,50).

Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu có phải đối đầu với các sức mạnh ma quỷ, là những sức mạnh vẫn hành hạ loài người để biến họ thành nô lệ. Đức Giêsu đến là để cứu loài người khỏi những sức mạnh ấy (x. Lc 4,33; 8,26-39). Người cũng thông ban cho Nhóm Mười Hai quyền giải thoát loài người khỏi các sức mạnh ấy. Các đối thủ của Người kết tội Người là liên minh với Satan, nên mới được hắn ban cho quyền trên các quỷ (11,14-23). Trong khi các đối thủ Người thì cho rằng qua Người, đối thủ của Thiên Chúa đang hoạt động, Đức Giêsu lại quả quyết rằng đàng sau Người, có quyền năng của Thiên Chúa. Tương quan thực hữu của Đức Giêsu với Satan là thế nào, ta thấy ngay ở đầu hoạt động của Đức Giêsu, trong các cám dỗ. Trong những bản văn trước, tác giả liên tục cho thấy bản chất của tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Tương quan này đạt tới đỉnh cao trong lời tuyên bố của Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha” (3,22). Cả trong các cám dỗ, vấn đề cũng vẫn là tương quan này. Tương quan này bị thử thách rồi được xác nhận xuyên qua sự từ khước của kẻ ở trong thế đối lập tận căn với Thiên Chúa.

Cả ma quỷ và Đức Giêsu đều trích Kinh Thánh (chẳng hạn Satan dùng Tv 91,11-12 ở Lc 4,10-11), nhưng hắn không tỏ ra được là “kẻ mạnh hơn” (3,16;11,22). Như vậy, vào lúc khởi đầu sứ mạng, Đức Giêsu được giới thiệu như là “Đấng mạnh hơn” ra sức duy trì chương trình của Chúa Cha và vâng theo Kinh Thánh.

2- Bố cục

Bản văn có thể chia thành năm phần:

1) Mở (4,1-2a);

2) Cám dỗ thứ nhất (4,2b-4);

3) Cám dỗ thứ hai (4,5-8);

4) Cám dỗ thứ ba (4,9-12);

5) Kết (4,13).

3- Vài điểm chú giải

- được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa (1): Tác giả Lời Chúa cho thấy là kinh nghiệm của Đức Giêsu trong hoang địa đã xảy ra dưới sự bảo hộ của Thánh Thần. En tô ungmic có thể hiểu là “bởi Thánh Thần” (en = hypo = bởi, x. Mt 4,1) hay là “dưới ảnh hưởng” (en = trong).

- hoang địa (1): Đây là nơi gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 2,14-15), nhưng cũng là nơi trú ẩn của dã thú và ma quỷ (x. Lv 16,10; Is 13,21; 34,14; Tb 8,3).

- bốn mươi ngày (2): Chi tiết này lấy từ Mc 1,13, có thể nhắc đến Đnl 8,2 (trong khi Mt 4,1 là “bốn mươi ngày và bốn mươi đêm”, hẳn là lấy từ Đnl 9,9; Xh 24,18; 34,28; x. 1 V 19,8).

- quỷ (2): Tác giả Lời Chúa thay thế danh xưng Satan của Mc 1,13 bằng “quỷ”, diabolos (‘thần dữ”). Satan là một danh-ngữ Híp-ri có nghĩa là “đối thủ, kẻ kết tội, người truy tố”, được Bản LXX dịch là diabolos, “kẻ vu khống”. Lời Chúa không gọi quỷ là “tên cám dỗ” (ho peirazôn) như Mt 4,3, để cho thấy là ngài muốn ungm là kẻ đối lập, kẻ thách đố Đức Giêsu.

- Nếu ông là Con Thiên Chúa (3): Quỷ nhắc đến cảnh phép rửa (3,22).

- Đã có lời chép rằng (4): Gegraptai, “đã được viết”, là công thức đúc sẵn để đưa vào một câu trích Cựu Ước.

- Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh (4): Câu trích Đnl 8,3 giống với Bản LXX hơn.

- quỷ đem Đức Giê-su lên cao (5): Lời Chúa bỏ chi tiết “núi”, vì trong Lời Chúa của ngài, “núi” là một nơi để cầu nguyện và mạc khải của Thiên Chúa.

- Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi (8): Câu trích Đnl 6,13 này trong dạng giống với Thủ bản Lời Chúa của Bản LXX, Thủ bản B viết là “ngươi phải kính sợ” (gần với bản Híp-ri hơn).

- đến Giêrusalem (9): Đỉnh cao của các cám dỗ trong Tin Mừng III nằm ở thành định mệnh của Đức Giêsu.

- Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng (11): Tv 91,11 theo Bản LXX.

- Ngươi chớ thử thách Đức Chúa (12): Đnl 6,16 trích theo Bản LXX.

4- Ý nghĩa của bản văn

Một số người trong chúng ta cảm thấy ngỡ ngàng khi biết là Đức Giêsu cũng có những ngờ vực như chúng ta, Người cũng gặp những khó khăn trong khi thi hành sứ mạng, Người chỉ dần dà khám phá ra được chương trình của Cha Người về Người. Chúng ta sợ kéo Người xuống với bình diện chúng ta, thế nhưng Thiên Chúa không hề lạc hướng do sự bần khốn của chúng ta. Đúng hơn phải nói rằng Người còn nhận lấy sự bần khốn của chúng ta làm của Người, và bằng cách trở nên người phàm, đứng chung ung với người phàm (x. 3,1), Người đã đánh bại tội lỗi.

* Mở (1-2a)

Tác giả Lời Chúa cho thấy là sau phép rửa, Đức Giêsu đầy Thánh Thần. “Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa suốt bốn mươi ngày, và chịu quỷ dữ cám dỗ” (Lời Chúa 4,1-2a).

Qua các cám dỗ, ta thấy tất cả tính vững chãi và rõ ràng chắc chắn của tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Trong cuộc đối đầu này, ta cũng thấy rõ ràng là Đức Giêsu hoàn toàn đứng về phía Thiên Chúa.

* Cám dỗ thứ nhất (2b-4)

Cám dỗ thứ nhất kết thúc với câu trích Đnl 8,3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”. Đức Giêsu bị thách đố sử dụng quyền lực của Người là Con Thiên Chúa mà giải quyết những khó khăn mà mọi con người đều trải nghiệm, mà phục vụ lợi ích riêng tư, tìm kiếm lương thực cho mình ngoài kế hoạch của Chúa Cha. Đnl 8,1-6 nhắc đến kinh nghiệm Israel càm ràm chống lại Môsê và Aharon vì nhớ cơm bánh Ai Cập (Xh 16; Lời Chúa 11,7-8). Họ đã được Thiên Chúa ban manna và chim cút, nhưng đã bị trách mắng. Còn Đức Giêsu dứt khoát loại trừ thách đố của quỷ và nhắc tới lời Đnl mang tính khuyến thiện tóm tắt biến cố Xuất Hành.

Thử thách liên hệ đến tương quan đúng đắn với Thiên Chúa có thể đến từ nhiều phía. Trong cám dỗ thứ nhất, thử thách đến từ những nhu cầu sống còn của con người, rồi từ quyền lực và từ sự uy ung của con người và cuối cùng từ một tương quan sai lạc với Thiên Chúa. Thử thách đầu tiên bắt đầu với cái đói của Đức Giêsu. Tên cám dỗ đề nghị Người sử dụng quyền lực của Người để loại trừ cái đói. Trong cái đói, sự sống bị đe dọa. Muốn sống, con người cần cơm bánh. Không có cơm bánh, trước sau rồi cuộc sống của con người cũng phải kết thúc. Con người cần phải và có thể sử dụng cái gì để bảo vệ sự sống mình? Phải chăng sự sống này, một sự sống cần cơm bánh và lệ thuộc cơm bánh, là một giá trị tuyệt đối, biện minh cho mọi nỗ lực? Phải chăng người ta có thể tập trung tất cả các phương tiện và tất cả sức chú ý mà thỏa mãn các nhu cầu cơ bản? Đức Giêsu tuyên bố rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. Người có một sự sống cao hơn sự sống lệ thuộc cơm bánh: sự sống này hệ tại dây liên kết vô điều kiện và hoàn toàn tin tưởng với Thiên Chúa. Sau này Đức Giêsu sẽ nói với các môn đệ: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn […]. Hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lời Chúa 12,22.31). Phải dành chỗ đầu cho việc quay hướng về Thiên Chúa và tin tưởng vào quyền năng nhân ái của Ngài, chứ không được thay thế những điều ấy bằng nỗ lực đảm bảo cho sự sống mình bằng cơm bánh. Mối quan tâm đầu tiên luôn luôn phải là Thiên Chúa và dây liên kết với Ngài.

* Cám dỗ thứ hai (5-8)

Cám dỗ thứ hai kết thúc với câu trích Đnl 6,13: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của ungm, là Đấng ungm phải phụng thờ”. Đnl 6,10-15 nhắc tới kinh nghiệm của Israel lang thang trong hoang địa và bị thu hút bởi nền phụng tự Canaan (Đnl 12,30-31) và họ thường xuyên được Môsê nhắc nhở đừng chạy theo các thần ngoại hoặc các quyền lực ngoại (Xh 23,23-33). Đức Giêsu bị thách đố chấp nhận quyền thống trị trên cách nước thế gian từ một kẻ khác Thiên Chúa. Thử thách này không nhắm minh nhiên đến Người như là Chúa Con, nhưng thách thức Người nhận biết một kẻ khác thay vì Chúa Cha như là chủ và Chúa của Người. Câu trả lời của Người trích trực tiếp một lời Môsê nói với con cái Israel, và vẫn rút từ một bài tóm mang tính khuyến thiện về một biến cố trong Xuất Hành. Đức Giêsu dứt khoát loại bỏ thách đố tôn thờ bất cứ thứ gì ngoài Yhwh, Đức Chúa, Cha của Người.

Có thể nói cám dỗ thứ hai bắt đầu từ đối cực của các khả năng loài người. Cám dỗ này không nhắm tới con người đang chiến đấu để có sự cần thiết tối thiểu cho cuộc sống, nhưng nhắm tới khả năng con người nhìn xa hơn chính bản ung và sự sống của mình, và khao khát được làm chủ thế giới. Ở đây điều được nhắm tới là sự hấp dẫn của quyền lực, của quyền bá chủ tối đa. Nếu tìm quyền lực vì chính nó, người ta phải trả giá. Việc hoàn toàn chỉ tìm kiếm quyền lực không phù hợp với việc nhìn nhận quyền chủ tể của Thiên Chúa. Khẳng định ý chí thống trị của mình là đối lập lại với Thiên Chúa là Chúa Tể. Tìm kiếm và vui hưởng quyền lực là phụng sự Satan. Đức Giêsu đưa việc thờ phượng Thiên Chúa ung đối lập với việc phụng sự này. Chỉ Thiên Chúa mới là Chúa Tể và ý muốn của Ngài có giá trị hơn tất cả mọi sự. Nhìn nhận Thiên Chúa như là Chúa Tể tuyệt đối là có nền tảng để tương quan đúng đắn với Ngài.

* Cám dỗ thứ ba (9-12)

Cám dỗ thứ ba kết thúc với câu trích Đnl 6,16: “ungm đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của ungm”. Đnl 6,16 nhắc đến kinh nghiệm Xuất Hành của Israel khi họ thử thách Đức Chúa (Yhwh) tại Mátxa và Mơriva mà đòi có nước uống (Xh 17,1-7). Yhwh đã trả lời bằng cách bảo Môsê đập tảng đá cho nước chảy ra; nhưng Môsê đã khiển trách dân đã thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu bị thách đố trong tư cách Con Thiên Chúa ung quyền lực Người để tỏ bày bản ung cách lẫy lừng cho người đương thời và như thế phù hợp với các ý tưởng dân gian về một lãnh tụ được phái đến từ trời cao. Đức Giêsu lại ung một chỉ thị khác của Môsê mà trả lời, cho hiểu rằng không một ai có thể xin Thiên Chúa can thiệp chỉ để thỏa mãn chuyện ngẫu hứng của mình.

Có thể diễn tả cám dỗ thứ ba thế này: “Bởi vì ngươi đẩy sự sống và quyền lực con người ra sau và đặt Thiên Chúa ở trên mọi sự, thì hãy tỏ ra hợp tình hợp lý mà sống điều này. Ngài đã hứa bảo vệ ngươi: vậy thì hãy thử nghiệm sự che chở này đi!”. Nhưng chính hành vi được đề nghị này cũng là một hình thái khác của quyền lực cho riêng mình. Chúng ta phải tin tưởng hoàn toàn vào sự trợ giúp và che chở của Thiên Chúa, chứ không được đưa sự che chở của Ngài ung thử thách, chúng ta không được đẩy mình vào thế hiểm nghèo theo ý mình. Tương quan đúng đắn với Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta làm trong mức khả năng cho phép và để cho Thiên Chúa làm những gì Ngài muốn làm cho chúng ta. Tin tưởng vào Thiên Chúa không có nghĩa là lười biếng và thiếu suy xét cho hợp lý. Chúng ta phải sử dụng cách hợp lý và theo cách tốt nhất tất cả các khả năng Thiên Chúa đã ban cho. Cùng với sự tin tưởng, là trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa.

* Kết (13)

Câu kết cho thấy quỷ đã thất bại trong dịp này, nhưng nó chưa chịu thua. Nó chờ dịp khác. Đức Giêsu đã hiểu như thế và đã lưu ý các môn đệ: “Simôn, Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng ungm như người ta sàng gạo” (Lời Chúa 22,31). Và quỷ đã trở lại khi nhập vào Giuđa để xúi y bán Thầy (22,3), khi Đức Giêsu bị chao đảo trong chí hướng hiến thân (22,42), khi các thượng tế và lãnh binh đến bắt Người (22,53), khi các thủ lãnh và lính tráng chế nhạo thách thức Người trên Đồi Sọ (23,35-39). Nhưng Đức Giêsu tiếp tục dứt khoát tiến bước theo thánh ý Chúa Cha.

+ Kết luận

Đức Giêsu rất cương quyết và trung thành sống dây liên kết với Thiên Chúa. Không một cám dỗ nào có thể làm cho Người bị lung lạc, mà chỉ có thể làm cho chúng ta thấy Người bình thản và dứt khoát ở về phía Thiên Chúa và chứng tỏ Người là Con yêu dấu của Chúa Cha. Bằng sự vững chắc và cương quyết ấy, Người tiếp tục con đường đã theo và chỉ cho chúng ta cũng như làm cho chúng ta có thể đi vào quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa.

Có thể nói ba xen cám dỗ có chủ đề chung là sửa chữa một cách hiểu sai sứ mạng của Đức Giêsu như là Con Thiên Chúa. Dây liên kết ba xen ấy là một chuỗi các câu trích lấy từ sách Đnl nhắc lại ba biến cố Xuất Hành trong đó con cái Israel trong hoang địa đã bị thử thách và đã thất bại. Đức Giêsu được minh nhiên so sánh với họ: tại chỗ Israel đã thất bại, Đức Giêsu đã thành công. Trong mỗi xen, ma quỷ bị Đức Giêsu đánh bại bằng cách trích Kinh Thánh. Tác giả Lời Chúa không ghi lại một lời nào khác của Đức Giêsu. Như thế, Người được phác vẽ ra như là Đấng chiến thắng nhờ được võ trang bằng Lời Thiên Chúa (x. Ep 6,17).

5- Gợi ý suy niệm

1. Trong lời mời gọi hoán cải, Gioan khẳng định rằng ơn cứu độ không mưa từ trời xuống cho chúng ta. Chúng ta phải chủ ý thực hiện một cuộc hoán cải quyết liệt và hữu hiệu mà quay về với Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta hoán cải và Ngài giúp chúng ta thực hiện, nhưng chúng ta phải chủ động bắt tay vào. Lối xử sự của chúng ta đối với Thiên Chúa sẽ cứ bị méo mó đủ cách. Nhiều thực tại khác lôi kéo sự chú ý của chúng ta, tỏ ra quan trọng và có giá trị hơn chính Thiên Chúa. Cám dỗ và thử thách vẫn có đó, nên ta cần phải lấy lập trường và quyết định. Đức Giêsu nêu gương cho chúng ta: vì Người luôn ở về phía Thiên Chúa, nên Người có thể trả lời cách yên hàn, chắc chắn và đàng hoàng. Người diễn tả ra cách đơn giản, tuyệt đối rõ ràng, điều gì có giá trị.

2. Bị thử thách không phải là một điều xấu: Đức Giêsu vừa được Thánh Thần hướng dẫn vừa chịu quỷ cám dỗ. Điều xấu là để mình sa chước cám dỗ. Nếu kiên trì chiến đấu và đạt chiến thắng như Đức Kitô đã làm trong hoang địa, ta đã có dịp diễn tả lòng hiếu thảo của mình đối với Chúa Cha. Dĩ nhiên không nên tự phụ mình thừa sức chiến thắng cám dỗ bằng cách đi tìm cám dỗ! Còn khi cám dỗ đến, chúng ta bắt chước Đức Giêsu ung những phương tiện siêu nhiên có được mà chiến đấu: Lời Chúa, cầu nguyện, Thánh Thể…

3. Chúng ta bị cám dỗ khi chỉ rút vào trong mình, và đầy người khác ra ngoài; khi chúng ta ung các tài năng để chỉ thỏa mãn chính mình; khi chúng ta xác tín rằng chúng ta phải lo cho chính mình, chứ không quan tâm đến người khác. Đức Giêsu đã sử dụng quyền của Người cho kẻ khác. Phải luôn nhìn nhận quyền chúa tể của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Nhưng sự nhìn nhận này thường xuyên bị đe dọa bởi việc đi tìm quyền lực: “Tôi có khả năng quyết định. Lời tôi nói và ý tôi muốn là dứt khoát và phải được tuân theo. Tôi có quyền xếp đặt các con người và các sự việc!” Đức Giêsu nhìn nhận quyền bính trong thế giới loài người. Tuy nhiên các quyền bính này không được coi như có quyền thống trị trên người khác, trái lại phải được sống như một công việc phục vụ (x. Lời Chúa 3,12-14; 22,24-27).

4. Trong cuộc sống này, chúng ta không thể mong được miễn giảm một cuộc chiến đấu gian khổ. Tuy nhiên, chúng ta được biết Tin Mừng này: có một Đấng mà tên cám dỗ không làm hại được; có Đấng tuyệt đối sống trung thành với Thiên Chúa. Cho dù chúng ta không chống lại được thử thách và cứ té ngã liên tục, sự kiện có một Đấng vẫn đứng vững và trung thành với Thiên Chúa phải thổi vào lòng chúng ta niềm vui và sự can đảm. Đức Giêsu đã không cần bằng chứng để tin vào tình yêu của Chúa Cha. Thế nhưng có những Kitô hữu tin rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương họ khi mọi chuyện xuôi chảy với họ, còn khi có những trục trặc, họ bắt đầu ngờ vực. Còn Đức Giêsu, ngay trên thập giá, khi những con mắt trần gian thấy dường như Người bị Thiên Chúa nguyền rủa, Người vẫn tin vào tình yêu của Chúa Cha.

5. Đức Giêsu nói “không” với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình, bởi vì con đường Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của bản tính tự nhiên. Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục, những thất bại, thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội, nhưng Người có thể chọn con đường chung của mọi người, là sự thoải mái. Vinh quang không phải là một tội, mà còn là một quyền Người có thể ung. Sự rút lui của quỷ chứng tỏ đây không những là một chiến thắng của chủ trương Mêsia khiêm nhường và phục vụ như tôi tớ, mà còn là một chiến thắng riêng của Đức Giêsu. Người đã không muốn bước theo một nẻo đường tiện nghi thoải mái, không muốn hưởng trước một thành công; nhưng Người đã tôn trọng con đường đã được chọn cho Người dù phải hy sinh, thiệt thòi. Khi rời khỏi hoang địa, không những Người được thánh hiến mà còn có đầy đủ tư cách Mêsia.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông: ĐỨC TIN

Đnl 26: 4-10

Sách Đệ Nhị Luật mời gọi dân Do thái khi dâng của lễ đầu mùa lên cho Đức Chúa phải kèm theo lời tuyên xưng đức tin ngỏ hầu họ biết nhận ra rằng Đức Chúa không chỉ là Chủ Tể Lịch Sử, Đấng đã hướng dẫn vận mệnh của họ và đã dẫn dắt họ đến tận miền đất phì nhiêu này; nhưng cũng chính một mình Người chứ không một vị thần Ba-an nào, đã ban cho họ sản phẩm thiên nhiên một cách quảng đại.

Rm 10: 8-13

Trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người ta không thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô, bởi vì Thiên Chúa là tác giả ơn cứu độ được thực hiện ở nơi Đức Giê-su Ki-tô; Kinh Thánh đã loan báo ơn cứu độ phổ quát này: mọi người, người Do thái cũng như lương dân, đều được mời gọi dự phần vào ơn cứu độ này.

Lc 4: 1-13

Tin Mừng Lu-ca thuật lại câu chuyện Chúa Giê-su chịu các chước cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giê-su, trung thành với kế hoạch của Chúa Cha, đã đẩy lùi Tên Cám Dỗ, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

BÀI ĐỌC I (Đnl 26: 4-10)

Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm và cuốn sách sau cùng của bộ Ngũ Thư. Tên sách có nghĩa “luật thứ hai” (từ ngữ căn Hy ngữ: “deuteros”: thứ hai, và “nomos”: luật). Quả thật, sách này lập lại luật Mô-sê, nhưng được thích ứng vào hoàn cảnh dân chúng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an. Về phương diện văn chương cũng như thần học, qua hư cấu, tác giả để cho ông Mô-sê nói thay cho mình.

1. Của lễ đầu mùa:

Của lễ đầu mùa là một nghĩa vụ được ghi nhận nhiều lần trong luật Mô-sê: “Của đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 23: 19; 34: 22-26). “Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các ngươi, và gặt lúa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa gặt hái của các ngươi” (Lv 23: 10).

Cử chỉ cảm tạ tri ân Thiên Chúa này rất phổ biến. Nhiều bức tượng liên quan đến các tôn giáo miền Cận Đông cho chúng ta biết nhiều nghi lễ tiến dâng như vậy. Người ta phân biệt những chiếc giỏ đựng nông sản với nghi thức rưới rượu trên những chiếc giỏ này, và với bữa ăn thánh quy tụ những người dâng của lễ.

2. Những thử thách dân Do thái đã kinh qua:

Ấy vậy, dân Ít-ra-en bị thử thách khi bắt chước dân bản địa, dân Ca-na-an bằng cách tiến dâng của lễ của mình lên thần Ba-an, vị thần ban phì nhiều của dân bản địa, trên những nơi cao, và ca ngợi tấm lòng quảng đại của thần.

Ngôn sứ Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) lên án những thực hành này mà ngôn sứ sánh ví với tội ngoại tình của dân Chúa chọn: “Mẹ chúng quả thật đã làm điếm, kẻ mang thai chúng đã thất tiết rồi, vì nó đã nói: ‘Tôi đi theo các tình nhân của tôi, chính họ cho tôi bánh và nước, cho len, cho vải, cho dầu ăn, cho thức uống” (Hs 2: 7). Và vị ngôn sứ để cho Đức Chúa nói lên những lời trách cứ: “Nó đâu biết rằng chính Ta đã ban cho nó lúa mì, rượu mới và dầu tươi, cũng chính Ta đã tặng cho nó bạc vàng nhiều vô kể, vậy mà chúng đem chế tạo đồ dâng cúng thần Ba-an” (Hs 2: 10).

3. Lời tuyên tín:

Sách Đệ Nhị Luật thường vang dội giáo huấn của các ngôn sứ, nhất là các ngôn sứ đã chiến đấu chống lại những tội bội giáo của vương quốc Miền Bắc như ngôn sứ Hô-sê. Vì thế, tác giả đòi hỏi dân Ít-ra-en phải đưa vào trong nghi lễ dâng của đầu mùa của mình lời tuyên xưng đức tin; dân phải biết nhận ra rằng Đức Chúa không chỉ là Chủ Tể Lịch Sử, Ngài đã biến đổi số phận của họ; nhưng cũng chính Ngài, Chúa của thiên nhiên, đã ban tặng cho dân nguồn phú túc.

BÀI ĐỌC II (Rm 10: 8-13)

Thánh Phao-lô viết thư này gởi cho các tín hữu Rô-ma vào những ngày sau cùng của thánh nhân ở thành Cô-rin-tô vào mùa đông năm 56-57; vào lúc đó, thánh nhân nghĩ đến cuộc hành trình đến thành đô Rô-ma để viếng thăm cộng đoàn Ki-tô hữu Rô-ma trước khi đi loan báo Tin Mừng ở Tây Ban Nha. Dự định của ngài sẽ được thực hiện ngoài dự liệu của thánh nhân: ngài sẽ đến Rô-ma trong cảnh tù đày.

1. Định vị đoạn văn:

Thư gởi cho các tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất trong các thư của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý. Chủ đề trọng tâm là vai trò đức tin trong đời sống người Ki-tô hữu. Đoạn văn mà chúng ta đọc được trích từ phân đoạn thống thiết ở đó thánh Phao-lô buồn bã gợi lên sự cứng tin của dân Ít-ra-en, đồng bào của ngài (từ ch. 9 đến ch. 11).

Làm thế nào dẫn đưa đồng bào huyết thống của mình đến đức tin, ngoài việc chỉ cho họ thấy rằng sứ điệp Tin Mừng đã được Kinh Thánh loan báo? Vì thế, thánh nhân sẽ dựa lời kêu gọi của mình trên một loạt những lời trích dẫn Kinh Thánh.

2. Ngôi vị hóa Lời Thiên Chúa:

Trước hết thánh Phao-lô trích dẫn một bản văn Đệ Nhị Luật: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng” (Đnl 30: 14). Bản văn này nhằm chứng thực rằng bổn phận của người tín hữu là phải “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết tâm hồn của mình” và thực thi mọi huấn lệnh Lề Luật. Lề Luật này không vượt quá sức mình; chính Thiên Chúa đến trợ giúp bằng cách nội tâm hóa Lời của Người, tức là, ghi khắc Lời Người vào trong tâm khảm của người tín hữu.

Đối với thánh Phao-lô, việc ngôi vị hóa Lời này xem ra như một linh cảm về Ngôi Lời nhập thể. Bản văn này thực sự sẽ cấu thành một trong những điểm tựa thần học về Ngôi Lời, cùng với vài đoạn văn của các sách minh triết Cựu Ước. Lời Thiên Chúa này được tiếp tục ở nơi sứ điệp Tin Mừng; đó cũng là một Lời; Lời hiện diện trong “lòng” người Ki-tô hữu, được bày tỏ ở nơi toàn bộ tâm tư tình cảm và luân lý. Người Ki-tô hữu phải công bố Lời hết sức mình, bằng cách tuyên xưng trên môi miệng mình Đức Giê-su là Chúa, cùng chung một tước hiệu với Đức Chúa, và quyền tối thượng của Ngài được bày tỏ một cách rực rỡ qua cuộc sống lại của Ngài. Đó là niềm tin vào sự sống lại, đó là lời tuyên tín cốt yếu.

3. Đặt trọn niềm tin vào chỉ một mình Thiên Chúa:

Thánh Phao-lô tiếp tục chứng minh bằng cách trích dẫn một bản văn I-sai-a: “Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng” (Is 9: 33); vị ngôn sứ ngỏ lời với các vị thủ lãnh vương quốc Giu-đa, vào thời điểm Giê-ru-sa-lem lâm vào cơn nguy khốn cùng cực nhất. Những vị lãnh tụ này chỉ còn biết nghĩ đến việc tìm kiếm sự trợ giúp từ phía quyền lực dân ngoại. Ngôn sứ I-sai-a cho họ hiểu rằng họ phải đặt trọn niềm tin vào chỉ một mình Đức Chúa.

4. Ơn cứu độ được ban cho hết mọi người:

Không có bất kỳ một khác biệt nào giữa người Do thái và lương dân: ơn cứu độ được ban cho hết mọi người. Dân Ít-ra-en phải biết chấp nhận tính phổ quát của ơn cứu độ này, vốn đã được Kinh Thánh loan báo rồi. Thánh Phao-lô tiếp tục trích dẫn lời ngôn sứ Giô-en: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Ge 2: 32). Bản văn này gần với viễn cảnh cánh chung. Viễn cảnh này xem ra chỉ liên quan đến các tín hữu Ít-ra-en; nhưng nó toan tính ban cho những câu này một tầm mức phổ quát. Thánh Phao-lô không là người duy nhất bày tỏ điều này. Thánh Lu-ca trong sách Công vụ Tông Đồ đặt trên môi miệng thánh Phê-rô cùng một sấm ngôn này, ngay từ ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 17-21).

Chúng ta ghi nhận rằng thánh Phao-lô bắt đầu thời đại của mình khi gợi lên tước hiệu “Chúa” (“kurios”) được ban cho Đức Giê-su: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (10: 9) và thánh nhân kết thúc thời đại này với cùng một tước hiệu xưa kia được dành riêng cho một mình Đức Chúa: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (10: 13). Đây là phương pháp văn chương “đóng khung” hay “bao hàm” rất quen thuộc đối với thánh Phao-lô, qua phương pháp này thánh nhân công bố rằng người ta không còn có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô. Nét đặc trưng của Ki tô giáo là liên kết mật thiết với con người của Chúa Ki-tô khi tuyên xưng Thần Tính của Ngài.

Lời tuyên tín này chắc chắn gây khó khăn cho những anh em đồng đạo của thánh nhân, thánh Phao-lô biết rất rõ điều này. Nhưng Kinh Thánh loan báo điều này rất rõ đến mức dân Ít-ra-en phải sáng suốt mà nhận ra. Đây là tất cả niềm hy vọng của thánh nhân.

TIN MỪNG (Lc 4: 1-13)

Câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ trong hoang địa được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, thánh Mác-cô tường thuật ngắn nhất, trong khi thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca tường thuật dài hơn bằng cách kể ra những chước cám dỗ mà Chúa Giê-su kinh qua. Hai bài tường thuật của Mát-thêu và Lu-ca có thể được đặt song song, nhờ đó nêu bật vài điểm khác biệt. Vào năm phụng vụ này, Năm C, chúng ta đọc câu chuyện theo Tin Mừng Lu-ca.

Câu chuyện Chúa Giê-su chịu cám dỗ được liên kết với câu chuyện Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa, biến cố mà chúng ta phải khảo sát trước tiên.

A. Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa (4: 1-2)

Sau khi Chúa Giê-su đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, Ngài rời bỏ bờ sông Gio-đan để đi sâu vào hoang địa, đây là hoang địa Giu-đê, gần Biển Chết, nơi dòng sông Gio-đan đổ vào. Đây cốt yếu là tác động của Chúa Thánh Thần: “Đức Giê-su được đầy Thánh Thần”. Thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô cũng nhận ra Chúa Thánh Thần là tác nhân tích cực của quyết định này, tuy nhiên thánh Lu-ca còn tinh tế hơn khi nói thêm: “Người được Chúa Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa”, tức là, Đức Giê-su tuân theo ý muốn của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong Ngài. Chúng ta biết rằng thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất quan tâm nhất đến sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, cả trong sách Tin Mừng của mình lẫn trong sách Công Vụ Tông Đồ; ở đây thánh ký biết nêu lên điều này một cách tinh tế.

a. A-đam mới:

Một nét đặc trưng khác của Tin Mừng Lu-ca: thánh ký đặt vào giữa câu chuyện phép rửa và câu chuyện cám dỗ gia phả của Chúa Ki-tô mà thánh nhân không chỉ lên đến vua Đa-vít và tổ phụ Áp-ra-ham như thánh Mát-thêu, nhưng đến tận nguyên tổ “A-đam là con Thiên Chúa” (Lc 3: 38). Như vậy, ngay sau khi nêu lên nguyên tổ A-đam, câu chuyện cám dỗ mới bắt đầu. Điều này muốn nói rằng Chúa Giê-su là A-đam mới; khi chiến thắng Ác Thần, Ngài trở thành thủ lãnh của nhân loại tái sinh.

b. Mô-sê mới:

Chúa Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh, những phương tiện mà những ai mong ước được kết hiệp với Thiên Chúa luôn luôn sử dụng. Ngài chuẩn bị suốt bốn mươi ngày đêm, như ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai, trước khi đón nhận hai bảng Thập Giới (Xh 24: 18 và Đnl 9: 9), cũng như ngôn sứ Ê-li-a, sau khi đã được bồi dưỡng bởi thần lương, đi suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Khô-rếp để gặp gỡ Thiên Chúa (1V 19: 8).

Quả thật, trong tình tiết này Đức Giê-su xuất hiện như một Mô-sê mới. Như xưa kia, ông Mô-sê xuống núi với những lời Giao Ước, nền tảng của dân Ít-ra-en là dân Chúa chọn, Chúa Giê-su sẽ rời hoang địa để thiết lập một Giao Ước mới và hình thành nên một dân Thiên Chúa mới.

c. Dân Ít-ra-en mới:

Con số “bốn mươi” cũng gợi lên bốn mươi năm dân Do thái lữ hành trong hoang địa, trong suốt những năm tháng đó họ đã kinh qua những chước cám dỗ, điều này gợi nhớ những chước cám dỗ của Chúa Giê-su. Nhưng trong khi dân Ít-ra-en thất bại, thì Chúa Giê-su lại chiến thắng.

Cuối cùng, giai đoạn hoang địa đối với Chúa Giê-su là một cách thức khẳng định sự liên đới của Ngài với dân Ngài; cũng vậy, việc Hài Nhi Giê-su phải lánh nạn sang Ai-cập được tường thuật trong Tin Mừng Thơ Ấu theo thánh Mát-thêu đã cho Ngài sống lại cuộc xuất hành của dân Ngài. Chúa Giê-su tóm gọn ở nơi con người của Ngài lịch sử dân tộc Ngài; Ngài là dân Ít-ra-en mới.

B. Ý nghĩa của những chước cám dỗ (4: 3-12)

Sự kiện Chúa Giê-su chịu cám dỗ được truyền thống chứng thực rất mạnh mẽ; tuy nhiên, không có ai được diễm phúc chứng kiến biến cố này. Vì thế, người ta phải giả sử rằng Chúa Giê-su đã kể lại sự kiện này cho các môn đệ Ngài. Người ta muốn định vị lời tâm sự này sau lời tuyên tín của thánh Phê-rô ở Xe-da-rê, khi Chúa Giê-su nhận ra rằng các Tông Đồ, thánh Phê-rô là người đầu tiên, vẫn cứ bám chặc vào một quan niệm sai lạc về Đấng Mê-si-a, vì thế Ngài trách cứ nặng lời với thánh Phê-rô mà chúng ta nghe như âm vang câu chuyện cám dỗ này: “Xa-tan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8: 33). Mặt khác, Chúa Giê-su rõ ràng ám chỉ đến cuộc chiến thắng của Ngài trên Xa-tan trong dụ ngôn về một người mạnh được trang bị đầy đủ: “Nếu tôi dựa vào Thần Khi của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông. Làm sao người ta có thể vào nhà một kẻ mạnh và cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó” (Mt 12: 28-29; Mc 3: 26; Lc 11: 21).

Bài học đầu tiên của việc Chúa Giê-su chịu các chước cám dỗ chắc chắn là bài học về sự liên đới của Ngài với nhân loại. Chúa Giê-su, khi chấp nhận sống kiếp người, đã muốn đảm nhận những cảnh đời nô lệ, yếu đuối, đau khổ về phương diện luân lý cũng như thể chất. Vào lúc chịu phép rửa, tiếng phán từ trời đã nhắc nhở Ngài, không chỉ địa vị Con Thiên Chúa, nhưng còn ơn gọi làm Người Tôi Trung của Ngài. Chúa Giê-su biết Kinh Thánh đã loan báo những gì liên quan đến dung mạo người tôi trung này; Ngài biết con đường nào Ngài phải đi qua; Ngài chấp nhận, nhưng về phương diện phàm nhân, Ngài cảm thấy xao xuyến. Trước khi bắt đầu sứ mạng của mình, Đức Giê-su bị tác động mạnh bởi nỗi sợ hãi và xao xuyến, và xuất hiện trước mắt Ngài những hình ảnh quyến rủ hơn, đó là chuyện thường tình. Tình tiết hoang địa sóng đôi với tình tiết vườn Ô-liu (thánh Lu-ca đã nhận ra điều này). Nỗi cô độc của hoang địa tương ứng với nỗi cô độc của vườn Ô-liu; viễn cảnh về một sứ mạng gian nan tương ứng với viễn cảnh bi thảm hơn của cuộc Tử Nạn gần kề. Cơn cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra suốt cuộc rút lui vào hoang địa này, như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca gợi lên – điều này không có gì là không thật cả – đoạn đạt đến cực điểm, vì thể chất yếu nhược của Đức Giê-su sau khi đã chay tịnh lâu ngày.

Chính cực điểm này mà các thánh ký muốn mô tả, khi trình bày sự đối đầu mầu nhiệm của Đức Giê-su. Hình thức văn chương của bài tường thuật rất gần với loại chú giải kinh sư (“midrash”) và văn chương khải huyền Do thái. Ba chước cám dỗ nêu bật những thái độ mà Chúa Giê-su đã từ chối và đồng thời cũng là những chọn lựa mà Ngài đã tự nguyện thực hiện trong sự vâng phục ý định của Chúa Cha.

a. Đấng Cứu Thế trần tục (4: 3-4)

Sau những ngày chay tịnh, Chúa Giê-su cảm thấy đói. Quỷ gợi lên cho Ngài biến đá hoang địa thành bánh; quỷ muốn thử thách quyền năng của Đấng có thể là “Con Thiên Chúa”, tước hiệu đã được công bố vào lúc Ngài chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả; nó muốn hướng quyền năng này về những của cải thuộc trật tự vật chất.

Trong cảnh thiếu thốn của hoang địa, tư tưởng đã có thể đến với Chúa Giê-su là sử dụng quyền năng của mình trên những sự vật vào những mục đích vị kỷ. Ngài đã bác bỏ điều đó; Ngài sẽ không bao giờ sử dụng quyền năng này ngoại trừ vì tha nhân và còn các phép lạ sẽ là những dấu chỉ của những của cải tinh thần mà Ngài đem đến cho con người một cách phong phú.

Xưa kia dân Do thái, vì lâm vào hoàn cảnh phải đói trong hoang địa, đã nhận được ân ban bánh man-na; ông Mô-sê đã cảnh giác họ coi chừng thói tham lam của cải vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8: 3). Chúa Giê-su đáp trả Xa-tan với cùng một lời này. Chúng ta lưu ý rằng trong câu trả lời này, Chúa Giê-su không chỉ không vén mở căn tính của Ngài, nhưng còn tự đồng hóa mình với loài người. Một ngày kia, Ngài cũng lâm vào cảnh đói. Các môn đệ đem thức ăn đến cho Ngài. Ngài sẽ trả lời: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết…Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4: 32-33).

b. Đấng Cứu Thế thống trị (4: 5-8)

Thánh Lu-ca đặt cơn thử thách về quyền thống trị vào chước cám dỗ thứ hai, trong khi thánh Mát-thêu lại đặt vào chước cám dỗ thứ ba. Việc đảo lộn trật tự này sẽ cho phép thánh Lu-ca kết thúc bài trình thuật của mình với việc kể ra Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ, đây là một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Lu-ca. Ngay khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài, Đức Giê-su bắt đầu lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem, ở đó lịch sử cứu độ sẽ đạt đến tột đỉnh. Thánh ký sử dụng ý tưởng “lên đường” này nhiều lần (Lc 4: 30; 9: 41-53; 17: 11; 19: 28), nhằm lập trình cho toàn bộ chuyện kể của mình một cuộc hành trình dài lên Thành Thánh. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất bỏ qua những lần xuất hiện của Đức Giê-su Phục Sinh ở Ga-li-lê; có lẽ khi làm như thế, thánh ký muốn nhấn mạnh những lần xuất hiện ở Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng, sách Tin Mừng đóng lại với một hoạt cảnh được dàn dựng chính xác ở đền thờ: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24: 52-53).

Ngoài ra, việc đảo lộn trật tự này nêu bật lập luận bất khả chuyển lay của Xa-tan. Quỷ quy chiếu đến tiếng phán từ trời vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”. Đây là câu trích dẫn từ Thánh Vịnh 2, ấy vậy, thánh vịnh này tiếp tục với những lời như sau: “Con cứ xin, rồi Cha ban tặng muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa” (Tv 2: 8).

Quỷ đề nghị dâng hiến cho Ngài quyền thống trị trên muôn dân nước nếu Ngài bái lạy quỷ. Quỷ đưa Ngài “lên cao”, chắc chắn đây là một trong những nơi siêu phàm, như trong các thị kiến của các sách khải huyền. Hơn nữa, bản văn gợi ra một bước phát triển của những chước cám dỗ, không còn cám dỗ về của cải vật chất, nhưng về quyền lực thống trị: “Tôi sẽ cho ông quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này…”.

Chúa Giê-su biết rõ rằng dân Ngài đang sống trong niềm hy vọng về một Đấng Cứu Thế, Đấng ấy sẽ dành lại nền độc lập chính trị cho họ, phục hưng vị thế và quyền lực của họ. Trong những lúc trầm tư một mình, Chúa Giê-su đã có thể ước tính lợi ích hấp dẫn ở nơi Đấng Mê-si-a giải phóng đáp ứng những ước vọng của dân Ít-ra-en. Như vậy, việc mở rộng triều đại Thiên Chúa thật là thuận lợi biết bao! Tuy nhiên, chủ nghĩa cứu thế này, Chúa Giê-su đã luôn luôn từ chối, Ngài lẫn tránh những ước nguyện của đám đông, khi giải thích rằng vương quốc của Ngài thuộc trật tự tinh thần. Việc Xa-tan đề nghị quyền thống trị thế giới phù hợp với não trạng của thời đại. Việc đồng hóa những quyền lực chính trị với những thế lực Ác Thần càng dể dàng hơn, vì những quốc gia thống trị là những quốc gia thuộc thế giới ngoại giáo.

Về việc quỷ đề nghị thờ ngẫu tượng, Chúa Giê-su đáp trả bằng những lời mà ông Mô-sê đã ngỏ lời với dân Do thái vào bối cảnh dân bị thử thách cúng tế các thần Ba-an của dân Ca-na-an: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Chỉ sau khi đã trải qua Tử Nạn và Phục Sinh, Chúa Giê-su sẽ lãnh nhận quyền Chủ Tể hoàn vũ; Ngài sẽ nắm trọn chủ quyền này từ Cha Ngài chứ không từ ai khác.

c. Đấng Cứu Thế siêu phàm (4: 9-12)

Theo nhịp độ tăng dần của thánh Lu-ca, chước cám dỗ mạnh nhất mà Chúa Giê-su phải đương đầu và chế ngự, đó là muốn nâng đỡ công việc cứu thế của Ngài bằng những công việc phi thường.

Quỷ đặt Chúa Giê-su trên nóc Đền Thờ. Từ nóc Đền Thờ đến bức tường thành xung quanh khoảng bốn mươi mét. Quỷ nói với Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”. Xa-tan khôn khéo trích dẫn Tv 91: 11-12. Thánh Vịnh mang chiều kích Mê-si-a này gợi lên người công chính trung thành được Đức Chúa cho các thiên sứ của Ngài đến phù trợ; quỷ bóp méo ý nghĩa của Thánh Vịnh này khi đề nghị với Chúa Giê-su một hành động khêu khích buộc Thiên Chúa phải can thiệp. Chúa Giê-su đáp lại rằng Ngài sẽ không xin Thiên Chúa bảo vệ che chỡ Ngài một cách ngông cuồng đến mức làm cho Ngài khác với mọi người; kể từ lúc đó Ngài làm cho hiểu rằng Ngài sẽ không tìm cách thoát khỏi cái chết.

Ở nơi cơn cám dỗ cuối cùng, chúng ta nhận ra lỗi phạm của Ít-ra-en trong hoang địa, khi họ đòi hỏi một phép lạ bằng những lời này: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17: 7). Còn Chúa Giê-su, Ngài mô phỏng lời trách cứ của ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi chớ thủ thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngưoi” (x. Đnl 6: 16) để từ chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp. Ở đây Ngài không đòi Thiên Chúa dùng phép lạ để cứu mạng mình và cũng sẽ là như vậy khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá khi mà những kẻ ác tâm thách đố Ngài: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (Lc 23: 35). Như vậy, cả ba lần, Chúa Giê-su bày tỏ sự vâng phục tuyệt đối đối với Thiên Chúa và đối với chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

- Kết (4: 13)

Trái với “kết cục có hậu” của Mc 1: 13 và Mt 4: 11: “Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người”, thánh ký Lu-ca lại hướng sự chú ý về Tên Cám Dỗ, bởi vì thánh ký đã thấy rõ cuộc Khổ Nạn. Khi chống lại một cách vô ích quan niệm của Chúa Giê-su về sứ mạng Mê-si-a của Ngài, quỷ đã thua một trận, nhưng không phải là toàn bộ cuộc chiến, vì thế “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ” nghĩa là, chờ đợi lúc Đức Giê-su trải qua cuộc Khổ Nạn của Ngài. Quỷ thường xuất hiện trong suốt cuộc đời công khai của Chúa chúng ta (x. ví dụ như Mc 12: 28), nhưng thời cơ thuận tiện là vào cuộc Khổ Nạn: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22: 53), giờ mà quỷ sẽ được thấy rõ ràng nhất trong vai trò của nó là Tên Cám Dỗ. Đức Giê-su sẽ báo trước cho các môn đệ Ngài về điều này và nhiều lần đảm bảo với họ là Ngài sẽ chiến thắng (x. Ga 12: 31; 14: 30). Ở nơi cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, quỷ sẽ dốc toàn lực một lần sau cùng: “Phải hiểu cho đúng câu Tin Mừng Lu-ca 4: 13: ‘Và sau khi chấm dứt mọi cám dỗ, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ’. Câu đó không có nghĩa là sau khi ma quỷ cám dỗ, nó để cho ta yên một thời gian. Cũng không phải là nó để ta có giờ nghỉ ngơi hầu lấy lại sức mạnh cho cuộc chiến đấu sau. Cũng không phải Chúa ngăn cản, không để quỷ cám dỗ ta trong một thời gian. Dịch cho đúng câu đó có nghĩa là: quỷ tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại và tiếp tục tấn công. Nên khi quỷ thôi cám dỗ ta, chính là lúc nó đang tìm cách để đánh úp ta” (“Góp Nhặt”).

Đức Ki-tô, Thiên Chúa thật và con người thật, tự nguyện nên giống chúng ta trong mọi sự ngoài trừ tội lỗi (x. Pl 2: 7; Dt 2: 7; 4: 15) và chấp nhận chịu cám dỗ. Với tư cách là một con người, Ngài bị cám dỗ, và cũng với tư cách một con người, Ngài kháng cự: “Ngài đã không hành xử như Thiên Chúa, khi phát huy quyền năng của Ngài; giả như Ngài đã làm như vậy, làm thế nào chúng ta có thể noi gương Ngài được? Đúng hơn, như một con người, Ngài đã tận dụng những nguồn lực mà Ngài có chung với chúng ta” (St Ambrose, Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.). Qua việc lướt thắng mọi chước cám dỗ, Đức Giê-su chỉ cho chúng ta làm thế nào đối phó với những mưu mô xảo quyệt của quỷ dữ. Cha sở họ Ars giải thích: “Chúng ta may mắn biết bao có một vị Chúa làm mẫu gương. Chúng ta nghèo ư? Chúng ta có một vị Chúa sinh ra trong chuồng bò, nằm trong máng cỏ. Chúng ta bị khinh bĩ ư? Chúng ta có một vị Chúa dẫn lối chỉ đường, Ngài bị đặt trên đầu vương niệm bằng gai, bị khoắc áo choàng đỏ và bị cử xử như một kẻ điên khùng. Chúng ta bị hành hạ một cách đau đớn ư? Trước mắt chúng ta chúng ta có một vị Chúa thương tích đầy mình, hấp hối trong cơn đau đớn không thể tưởng tượng được. Chúng ta bị bách hại ư? Làm thế nào chúng ta có thể phàn nàn khi chúng ta có một vị Chúa bị những lý hình thi hành án tử? Cuối cùng, chúng ta bị quỷ thử thách ư? Chúng ta có Đấng Cứu Chuộc yêu dấu; Ngài cũng đã bị quỷ thử thách và hai lần bị thần ác đó đem lên cao; vì thế, dù những đau khổ chúng ta đang trải qua như thế nào, chúng ta luôn luôn có khắp nơi Chúa chúng ta dẫn lối chỉ đường cho chúng ta và đảm bảo cho chúng ta sự chiến thắng chừng nào chúng ta chân thành ước muốn nó” (Selected Sermons, First Sunday of Lent).

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin: CHÚA GIÊSU CHỊU CÁM DỖ

Trong khi đem bản gia phả vào đây, Luca có nguy cơ phá vỡ mối liên kết nền tảng mà truyền thống đã thiết lập giữa phép rửa và cơn cám dỗ. Như thế ông nhắc lại cảnh này khi nói tới việc Chúa Giêsu đến từ bờ sông Giođan và ông bày tỏ mối dây liên kết giữa bản gia phả và sự hiển linh sau khi chịu phép rửa, chính trong tư cách là Con Thiên Chúa và đầy tràn Thần Khí thánh mà Chúa Giêsu sắp chịu thử thách. Người được dẫn vào sa mạc, địa điểm mơ hồ này nơi mà, theo Kinh Thánh, con người có thể có kinh nghiệm về sức mạnh của tà thần hay đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống.

Luca mượn từ tài liệu “Nguồn các lời” một sắc thái Kitô giáo về Chúa Kitô được cấu trúc bằng ba lời trích dẫn mà ông chọn lựa cẩn thận từ sách Đệ nhị luật, để minh hoạ một kinh nghiệm căn bản của Chúa Giêsu. Trường hợp duy nhất trong văn chương Tin Mừng: ở đây Chúa Giêsu chỉ tuyên bố những trích dẫn từ Cựu Ước! Con Thiên Chúa phải trải qua ba thử thách mà dân Isaia đã chịu trong cuộc xuất hành và họ đã sa ngã; khi lợi dụng những bài học của Đệ nhị luật nhắc nhở ta canh chừng khỏi tái phạm những lầm lỗi tương tự. Chúa Giêsu chiến thắng địch thủ. Có vẻ như truyền thống trình bày ba giai đoạn theo trật tự như thấy trong Matthêu: bánh (chỉ tìm của cải vật chất), chóp đỉnh Đền Thờ (thử thách Chúa để đòi hỏi những dấu chỉ Mêsia gây sửng sốt), vương quốc trần gian (thoả hiệp với cái ác để bảo đảm quyền lực Mêsia). Luca sẽ đảo lộn cám dỗ thứ hai và thứ ba, để cám dỗ sau cùng –cám dỗ quan trọng nhất- là thử Thiên Chúa được diễn ra tại Giêrusalem.

Đối thủ của Thiên Chúa –được gọi là ma quỷ bốn lần trong bản văn này- đã ghi nhận được lời tuyên bố từ trời. Biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nó thử ngăn trở vai trò của Người trong lịch sử cứu độ, khi bằng cách này hay cách khác mời mọc Ngài thực hiện một Công vụ Mêsia lừng lẫy. Độc giả đừng lầm lẫn về sứ mạng đích thực của Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu hoàn tất lời Thiên Chúa: Ngài từ chỗ làm phép lạ để có lợi cho cá nhân Ngài (x. Đnl 6,13 được trích ở câu 8), cũng như dùng quyền năng Con Thiên Chúa của mình để tự bảo vệ… và quyến rũ người Do Thái bằng những phép lạ có tính cách lừa bịp (x. Đnl 6,16 được trích dẫn ở câu 12). Thấy tên quỷ trích Thánh Vịnh 91,11-12, độc giả cũng có thể nghĩ đến các đối thủ Do Thái chống lại niềm tin Kitô giáo, khi họ dựa vào một số bản văn Kinh Thánh nói về Đấng Mêsia hoàng vương để từ chối Đấng bị đóng đinh đã sống lại.

Như vậy cả ba lần, sự trung thành của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa và đối với chương trình cứu độ đã bị thử thách. Thử thách chót chính là … thử Chúa bắt Chúa phải ra tay. Đó là lỗi của Israel trong sa mạc, khi họ đòi một phép lạ bằng những lời này; “Chúa có ở với chúng ta hay không?” (Xh 17,7). Còn Chúa Giêsu, Ngài từ chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp; Ngài không đòi phép lạ để cứu mạng mình. Ngài cũng sẽ không xin điều đó khi Ngài ở trên thập giá (23,35).

Bởi vì Luca đã thấy rõ cuộc khổ nạn. Trái với kết cuộc có hậu của Mt 4.11, khi Satan bỏ đi, Chúa Giêsu được các sứ thần phục vụ (x. Mc 1,13), tác giả Luca lại hướng chú ý về ma quỷ. Khi chống lại một cách vô ích quan niệm của Chúa Giêsu về sứ mệnh Mêsia của Ngài, quỷ đã thua một trận đánh, nhưng không phải là toàn bộ cuộc chiến và nói rời xa Ngài cho đến giờ H –giờ khổ nạn, mà dưới mắt của Luca nó là nhân vật chính và giấu mặt (22,3.31.53). Đối với Luca, những cơn cám dỗ đó là thử thách đầu tiên của một cuộc chiến sẽ kết thúc trên thập giá… và ở ngoài ngôi mộ Phục Sinh!

Sự chống đối giữa ma quỷ và Con Thiên Chúa là một thực tại: nó sẽ đưa Ngài đến cái chết. Khi thuật lại giáo huấn này về Đức Giêsu, Luca biết rằng ông diễn tả bằng hình ảnh. Chẳng hạn, phải chăng ông đã không loại bỏ ngọn núi rất cao từ đó người ta có thấy tất cả các nước trong thiên hạ –một cách diễn tả quen thuộc của Do Thái giáo, nhưng có thể người h luật pháp lại không hiểu nổi? Ông viết “trong giây lát” (c.5): bản âm không gian được thay thế bằng một ghi chú về thời gian!

Người ta sẽ hỏi đâu là nền tảng lịch sử của cảnh khai mạc này mà Luca đã có được? Bên cạnh một biến cố đúng thời gian, ta phải kể đến việc Chúa Giêsu sống ẩn dật trong một nơi không rõ ràng gọi là sa mạc, sau khi chịu phép rửa, với một thực tại kép: các cơn cám dỗ dĩ nhiên rồi, đặc biệt là cơn cám dỗ về một sự vụ Mêsia trần tục, những cám dỗ ấy là một chiều kích thường xuyên trong sứ vụ của Đức Giêsu; nhưng cũng cả việc Chúa Giêsu từ chối thuận theo cám dỗ nữa. Có những dấu vết chính xác về các cám dỗ ấy trong một tác phẩm của Luca (Lc 10,25; 11,6tt; 22,42…), và đã trở thành hiển nhiên: Chúa Giêsu là một Mêsia bị lột trần và đau khổ. Các môn đệ là chứng nhân và sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận. Các độc giả của Luca phải hiểu rằng không dễ dàng để hiểu Ngài.

Một lần nữa, thử thách theo đuổi suốt cuộc đời Chúa Giêsu không phải là tội. Như tất cả mọi người, Con Thiên Chúa đã kinh nghiệm câu châm ngôn này của Kinh Thánh: “Con ơi! Nếu con muốn phụng sự Chúa, con hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu thử thách” (Ch 2,1).

Bài 4. Chú giải của Noel Quesson

Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Từ sông Giođan trở về và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa.

Đức Giêsu vừa thay đổi cuộc sống. Đối với Người đó là một khúc quanh quyết định. Cách đây chỉ có vài ngày, Người vẫn còn là anh thợ mộc thôn làng, ở Nadarét. Người vừa nhận phép rửa ở sông Giođan “nhận chức” tác vụ làm ngôn sứ. Người được tràn đầy Thánh Thần? Trước khi bắt đầu tác vụ, Người cảm thấy cần phải một mình lui vào hoang địa. Người muốn cầu nguyện, suy nghĩ chọn những phương thế sẽ sử dụng để hoàn thành công trình của mình.

Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm. Trong Mùa Chay đang bắt đầu, tôi có dành mỗi ngày vài phút, hay mỗi tuần vài khắc đồng hồ cho việc này? Để cầu nguyện suy nghĩ, và thấy rõ hơn không?

Tôi dùng tưởng tượng, ngắm nhìn Đức Giêsu đang rời làng mạc đông dân cư, đi sâu vào những vùng đất sỏi đá không người, không cây cỏ, không nước. Người bước đi bước tới. Lạy Chúa, còn con có dám đi theo Chúa không, để có một thời gian trong “hoang địa”?

Tại đây Chúa bị cám dỗ trong 40 ngày.

Theo Luca, cơn “cám dỗ” mà Đức Giêsu đương đầu, kéo dài trong suốt thời gian 40 ngày. Người ở nơi hoang địa. Thời gian cầu nguyện, cũng là thời gian “thử thách”. Chữ này nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của cơn cám dỗ. Tự thử thách chính mình đó là xem mình có thể làm được những gì và “đưa ra bằng chứng về chính mình”. Trắc nghiệm một cỗ máy, đó là thử xem giá trị thực sự của nó. Sự “thử thách”, theo nghĩa này, là một điều rất tốt. Một mối tình được thử thách, đó là mối tình luôn bền vững và hiện giờ ta vẫn có thể chắc chắn về sự bền vững đó. Khi bảo chúng ta xin Thiên Chúa “đừng để chúng con xa trước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” Đức Giêsu không muốn nói là chúng ta sẽ không bị cám dỗ, nhưng ta phải chiến thắng cám dỗ, không bị nó đè bẹp, bị bại trận, thì sự dữ ngự trị. Nhờ khắc khổ, Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về lợi ích của thử thách. Vì thử thách có thể làm tình yêu lớn lên: Những cám dỗ Người chịu, sẽ làm nổi bật giá trị lòng “trung tín” của Người đối với Chúa Cha.

Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói.

Tôi ngưng một lát để chiêm ngắm cảnh này: Đức Giêsu đang đau khổ vì đói! Bao tử co thắt – chóng mặt, nhức đầu.

Đa số các tôn giáo lớn, đều có việc thực hành “chay tịnh” tự nguyện như thế! Nền văn minh hiện đại của chúng ta, có lẽ là nền văn minh duy nhất trong lịch sử, khước từ kinh nghiệm tôn giáo phổ quát này. Ta thường nói, cần phải hưởng thụ. Tại sao phải nín nhịn? Khi một người ít buông thả trong phạm vi tình dục hay ăn uống, họ có nguy cơ mất đi một điều cốt yếu: “Sự tự chủ”. Lúc đó, con người trở thành một sinh vật rất mềm yếu, không ý chí, nô lệ cho những bản năng sơ đẳng nhất. Ở đây, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hình ảnh một con người mạnh, có thể quên mình, “ăn chay” tự nguyện. Tôi có biết từ bỏ, hy sinh trong Mùa Chay này không?

1. Cơn cám dỗ thứ nhất

Bấy giờ quỷ nói với Người: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi”.

Cơn cám dỗ vì cái đói, đã là sự thử thách của Israel trong hoang địa. Nhưng cơn cám dỗ để thoả mãn cái đói của chúng ta, là sự thử thách của mọi người. Chúng ta biết rõ những khao khát thể xác của mình. Thiên Chúa đã đặt chúng trong ta, nhưng chúng ta có thể dễ “lệch lạc”, trở thành độc tài yêu sách. Xã hội tiêu thụ quanh ta lại càng tăng thêm quyền lực cho chúng: “Hãy mua món ragu, mì sợi Ý. Thế giới phương Tây, nói chung, quá dư thừa thực phẩm. Những y sĩ thường cảnh giác điều đó.

Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơn bánh”.

“Con người”. Lạy Chúa Giêsu, con thích nghe lời này từ miệng Chúa. Con người, đó là nỗi đam mê của Chúa. Chúa đã đến trong nhân loại để phát huy giá trị của con người trong mọi chiều kích. Chúa lặp lại cho chúng con hôm nay: Hỡi con người, đừng sống chỉ nhờ cơm bánh! Đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất. Người không có nhu cầu nào khác hơn là ăn, uống hút xách… sao?

Trong Mùa Chay này, chúng ta có biết phát triển những giá trị tâm linh của mình không? Chúng ta có biết cầu nguyện đón thận những thiếu sót khắc khổ, giúp mình thêm sinh khí không?

2. Cám dỗ thứ hai

Quỷ đem Đức Giêsu lên cao và trong giây lát chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được giao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”.

Rõ ràng, trình thuật này không phải là một “phóng sự” của một nhà báo mô tả hay quay phim một biến cố. Đây là một trang thần học tóm kết và tổng hợp cách tượng trưng “tất cả những hình thức cám dỗ” (Lu ca sẽ nói rõ điều đó khi kết thúc trình thuật của ông) mà Đức Giêsu đã gặp “thực sự” suốt cuộc đời của Ngài. Chẳng hạn, rõ ràng là cơn cám dỗ thứ hai này, cám dỗ để được “quyền hành thế gian”, đã không ngớt tấn công Đức Giêsu. Hằng ngày, Ngài đã phải đẩy lui cơn cám dỗ “cứu thế nhất thời” mà người đương thời đã muốn lôi kéo Người bước vào: Một Đấng cứu thế có tính chính trị, một ông “vua của thế gian” này theo kiểu vua Đavít cầm đầu, cùng với Nhóm quá khích để chống lại quyền hành và vinh quang, chống lại quân Rôma xâm lược (Ga 6,15). Ngay từ ngày đầu tiên này, tại hoang địa, cho tới hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu đã khước từ vương quyền để làm người “nghèo hèn” “người tôi tớ” (Ga 13,1-20). Đức Giêsu đã có thể trở nên giàu có và quyền thế nhưng Người đã chấp nhận “yếu đuối” (1 Cr 1,27), khi chọn thập giá là “điều ô nhục đối với người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại”. Cơn cám dỗ về “quyền hành” cũng là cơn cám dỗ của chúng ta: Muốn thống trị áp đặt, và lợi dụng.

Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. (Đnl 6,13)

Chống lại những cuộc tấn công của xatan, Đức Giêsu trả lời 3 lần bằng Kinh Thánh (Đnl 8,3-6,13-6,16), vì đó cũng chính là những cơn cám dỗ mà dân Chúa đã gặp nơi hoang địa trong “40 năm”, và giờ đây Đức Giêsu cũng đang sống lại trong bản thân Người: Đó là cơn cám dỗ về mana (Xh 16), cám dỗ thờ ngẫu thần và con bò vàng (Xh 32-42), cám dỗ làm những dấu lạ (Xh 17). Cơn cám dỗ của Israel cũng là cơn cám dỗ của Đức Giêsu, của toàn thể nhân loại, của chúng ta. Nghi ngờ Thiên Chúa, vì người không tỏ hiện, để tin những gì khác”.

Câu trả lời của Đức Giêsu là “không có gì hơn Thiên Chúa”. Lạy Chúa Giêsu, theo chân Chúa, con không muốn thờ lạy và tin tưởng ở tiền bạc, lạc thú, quyền hành, “những ý thức hệ chính trị”, những tiến bộ hay thời trang. Con chỉ phục bái “trước mặt Chúa”. Cái tạm thời không phải là xấu. Nhưng biến nó trở nên “tuyệt đối”, là một ảo tưởng bi thảm. Đức Giêsu là Đấng giải thoát chúng ta khỏi những “thần giả hiệu” đang gạt gẫm chúng ta.

3. Cơn cám dỗ thứ ba

Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ rồi nói với Người: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi! Vì có lời phép rằng: Thiên Chúa sẽ tay đỡ, tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. (Tv 91,11-12)

Đó là cơn cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đã đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời sống công khai của Người: hãy làm phép lạ đi – Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời. Hãy chứng minh rằng ông là Thiên Chúa. Hãy biểu lộ quyền hành của ông bằng phép lạ, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu ‘Thế chúng tôi đang mong đợi. Hãy bước xuống khỏi thập giá đi? (Lc 11,29-11,16-21,7; Ga 91,28-6,30-12,37; Mt 27,42-43). Còn chúng ta, chúng ta cũng luôn đòi hỏi những điều đó với Chúa sao?

Luca đã đặt cơn cám dỗ này, cám dỗ nơi đền thờ Giêrusalem xuống hàng thứ ba (còn đối với Matthêu, đó là cám dỗ thứ hai 4,5). Làm như thế, Luca mới nhấn mạnh đến sự tiệm tiến. Thực vậy, chính tại Giêrusalem, Đức Giêsu đã trải qua cơn thử thách lớn nhất của Người. Đó là cơn cám dỗ bi thiết, muốn cho Người khỏi phải chết: “Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42). Đức Giêsu đã không được thiên thần “bảo vệ”. Đó là cơn cám dỗ bi thảm nhất: trong đau khổ; mất niềm tin nơi Chúa Cha. Đức Giêsu đã không được bảo vệ, chân của Người đã vấp phải đá đường. Người đã không bao giờ dùng quyền năng thần linh của mình để tránh sức mạnh ghê gớm của “thân phận con người phải chết”. Người đã khước từ những phương tiện “ngoạn mục” để thi hành xứ vụ của mình, mà chỉ chọn những “phương tiện hạn hẹp”. Chính nhờ thái độ Dâng lời tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị “Chúa Cha bỏ rơi” (Mt 27,48), mà người chứng tỏ mình là Con Một của Cha. Người sẽ được ‘ “‘cứu khỏi chết” nhờ sự phục sinh của mình, nhưng chỉ sau khi đã sống trọn tình thương “cho đến tận cùng”. Do đó, chúng ta chớ ngạc nhiên khi đến lượt mình cũng cảm thấy cơn cám dỗ bi thảm này: Đó là cơn cám dỗ nặng nhất, khi nghĩ rằng “Chúa bỏ rơi ta”, cám dỗ của khuynh hướng vô thần “nếu có một Thiên Chúa tốt lành, thì tôi đâu có gặp thử thách như vậy! “

Chúa Giêsu đáp lại: Đã có lời rằng: ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.

Chúng ta cũng thường “thử thách Thiên Chúa”. Đôi khi chúng ta buộc Chúa phải theo ý muốn của ta: “Nếu Chúa hiện hữu, nếu con thật là con của Chúa, Chúa phải cho con lành bệnh, hay thoát khỏi một cơn thử thách nào đó hay thành công ở một kỳ thi nào đó. Nếu Chúa không làm như thế, thì Chúa đâu có còn quan tâm tới con nữa, và Chúa đâu còn hiện hữu gì với con”. Chúng ta biết rằng, vấn đề sự dữ trong thế gian là nguyên nhân của phần lớn những cuộc khủng hoảng tâm linh và dẫn đến nhiều trường hợp bỏ Đức tin. Nhưng chúng ta cũng tin rằng, Đức Giêsu đang “ở cùng chúng ta”. Đức Giêsu là người đầu tiền đã thắng cơn cám dỗ này, và dù có bị “đóng đinh trên cây gỗ”, vẫn một lòng trung thành với Chúa Cha.

Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.

Như vậy những cơn cám dỗ này, chỉ là khởi đầu. Đức Giêsu sẽ còn bị cám dỗ nữa. Và có thể nói, xatan đã hẹn tại Giêrusalem. Nơi đó sẽ diễn ra trận đụng độ thực sự khi Đức Giêsu bước vào cuộc thương khó (Lc 22,3).


Bài 5. Chú giải của Fiches Dominicales:
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN BÀNG HÀNH ĐỘNG

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Liên hệ chặt chẽ với phép rửa của Đức Giêsu

Sau trình thuật về phép rửa, lúc tiếng nói từ trời tuyên bố: “Con là Con Cha. Hôm nay Cha đã sinh ra Con”, Luca đưa vào bản gia phả của Người, nhắc lại tổ tiên nhân loại của Đức Giêsu cho tới “Adam, con Thiên Chúa”. Cũng trong mối liên lạc chặt chẽ với quang cảnh phép rửa là với bản gia phả mà thánh sử định vị cho giai đoạn cám dỗ:

Đức Giêsu “đầy Thánh Thần” rời bỏ “bờ sông, Giođan”; người “được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa” – Đây là nơi mơ hồ, nơi mà theo Kinh Thánh, con người bị thần dữ thử thách hoặc đi vào kết hiệp với Thiên Chúa hằng sống “trong 40 ngày”

Người sẽ bị “ma quỉ thử thách” với tư cách là Con Thiên Chúa. Ma quỉ hỏi với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy truyền cho hòn đá này trở nên bánh. Nếu ông là con Thiên chúa, hãy nhảy xuống đất”.

2. Thử thách đầu tiên trong cuộc chiến toàn thắng

Cũng như bản văn của Mátthêu – tuy thứ tự có khác – bản văn của Luca kết cấu chung quanh 3 cuộc cám dỗ. Ba cuộc cám dỗ, chính Tin Mừng xác định rõ ràng ở phần kết, đã “múc cạn” mọi hình thức cám dỗ”: những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu sẽ phải đương đầu suốt dọc tác vụ của Người cho đến khi chết, những cơn cám dỗ mà các môn đệ và mọi thành phần trong cộng đoàn của các ngài sẽ gặp. Ba cơn cám dỗ, cũng như ba lời trích dẫn đã ghi chú cặn kẽ, đã được khéo léo lựa chọn từ sách Thứ Luật (trích trong bài đọc 1 và thánh Phaolô trích dẫn trong bài đọc 2), chính là những cơn cám dỗ mà dân Israel đã phải đương đầu, trong suốt 40 năm sa mạc. Có điều họ đã sa ngã. Nay đến phiên Đức Giêsu phải đương đầu với những cơn cám dỗ ấy, suốt 40 ngày trong sa mạc: Ba lần, địch thù thử thách lòng trung tín của người Con đối với Thiên Chúa và với chương trình cứu độ của Người; trong cả 3 lần, Đức Giêsu đã chiến thắng.

Hugues Cousin nhận xét: “Đây là trường hợp độc nhất trong văn chương Tin Mừng. Đức Giêsu chỉ nói những lời tích từ Cựu ước, Con Thiên Chúa phải trải qua 3 cuộc thử thách mà xưa kia dân Israel trong chuyến Xuất Hành đã đương đầu và đã sa ngã đã sa ngã; rút được kinh nghiệm từ những bài học trong sạch thứ Luật, cảnh giác để khỏi tái diễn những lỗi lầm tương tự. Đức Giêsu đã chiến thắng đối thủ” (“Tin Mừng theo thánh Luca”, Centurion, trg 62).

Cơn cám dỗ đầu tiên, giống như Mátthêu, là cơn cám dỗ về Sở Hữu, cơn cám dỗ chỉ tìm lợi lộc vật chất, cơn cám dỗ của một chủ nghĩa Mêsia thiển cận: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy biến hòn đá này thành bánh đi”.

Lần đầu tiên trích dẫn sách Thứ Luật 8,3 – đoạn nói về manna – Đức Giêsu trả lời ngay tức khắc: “Người ta sống không nguyên bởi bánh”. Người từ chối làm phép lạ vì lợi lộc riêng tư. Là “Con” thật sự, Người nhận tất cả từ Thiên Chúa, Cha của Người và chỉ từ Chúa Cha mà thôi; nên Người phó thác tất cả cho Thiên Chúa, Cha của Người và chỉ phó thác cho Chúa Cha mà thôi. Roland chú giải: “Con là kẻ nhận được sự hiện hữu, sự sống không từ chính mình, nhưng từ một kẻ khác, từ Cha của mình. Con là kẻ hiểu biết trong niềm vui và niềm biết ơn rằng mình sống nhờ Cha. Người không phải là kẻ ra lệnh để có bánh; chính Chúa, Thiên Chúa của Người sẽ ban lương thực cùng với Lề Luật. Con không ra lệnh, Người khẩn cầu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Tin Mừng theo thánh Luca. Phân tích tu từ”, Cerf, quyển 3, trg 50).

Cơn cám dỗ thứ hai, khác với trình thuật của Mátthêu, là cơn cám dỗ về QUYỀN LỰC; cơn cám dỗ về một chủ nghĩa Mêsia theo tham vọng loài người, dù phải trả giá bằng sự thoả hiệp. “Nếu ông thờ lạy tôi, quỉ đoán chắc, ông sẽ có tất cả” (“Mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc ấy”).

Lần thứ hai trích dẫn sách Thứ luật 6, 1 3 – đoạn nói về con bò vàng – Đức Giêsu trả lời ngay: “Đã chép rằng: Người chỉ được thờ lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi mà thôi”. Người từ chối không tôn kính thủ lãnh trần gian để hành xử vương quyền phổ quát. Là Con thật sự, Người sẽ nắm giữ vương quyền từ Thiên Chúa, Cha của Người, và chỉ từ Cha người mà thôi, theo con đường Cha đã chọn: con đường khiêm nhường, nghèo hèn, thánh giá. R. Meynet chú giải: “Đức Giêsu sẽ nhận được các vương quốc trần gian, Người sẽ là Đức Kitô, Vua, vì Người đã từ chối vương quyền xấu xa của ma quỉ, vì Người đã tự nguyện trở nên tôi tớ của Thiên Chúa và của nhân loại” (Sđd).

Cơn cám dỗ thứ ba Luca đã cho diễn ra ở Giêrusalem, báo trước thử thách quyết liệt sau này, đó là cơn cám dỗ MA THUẬT, cơn cám dỗ thử thách Thiên Chúa, đi tìm những dấu chỉ kinh thiên động địa của Đấng Mêsia. Ma quỉ dùng Tv 90, cố cám dỗ một lần cuối: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống; Có lời chép rằng: người đã ra lính cho các thiên thần gìn giữ ông”.

Lần cuối cùng trích dẫn sách Thứ Luật 6,16 – đoạn nói về Massa, nơi dân Do Thái đã buộc Chúa phải cho họ nước uống – Đức Giêsu đáp tức khắc: “Đã chép rằng: “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Người từ chối sử dụng quyền làm Con Thiên Chúa để bảo vệ mình; và mê hoặc người Do Thái bằng những điều kỳ diệu. Người từ chối buộc Thiên Chúa phải can thiệp. Người không đòi phép lạ để cứu mạng sống mình; người chẳng đòi hỏi cả khi Người bị treo trên thánh giá. R. Meynet nói tiếp: “Người tin chắc rằng: Thiên Chúa sẽ cứu Người, Người không có quyền kiểm chứng xem Chúa Cha có trung tín không; Thiên Chúa chẳng cần phải chứng tỏ cho mọi người thấy Thiên Chúa có cứu Người” (sđd).

3. Sẽ hoàn tất trên thánh giá

Nếu, như nói ở trên, Luca hoán đổi vị trí 2 cơn cám dỗ sau, đó là vì muốn thiết lập một thứ tự tiệm tiến cho tới cơn cám dỗ thứ ba: Tại Giêrusalem, nơi có cuộc đụng đầu quyết liệt và nơi hoàn thành quyển sách đầu tiên của ngài. Đây là khúc nhạc mở đầu loan báo cuộc thử thách lớn lao trong khổ nạn.

Hôm nay, đối thủ đành chịu khuất phục, nó rút lui “chờ giờ phút đã định”. Lúc ấy, nó sẽ xuất hiện, ra những đòn cuối cùng tấn công Đấng Chịu Đóng đinh qua miệng các sĩ quan, quân lính và cả người trộm dữ nữa.

“Nếu ông là Đức Kitô, hãy cứu mình và cứu chúng tôi với!, một kẻ cùng chịu đóng đinh với Người lên tiếng, thách thức.

Trong lúc thất bại ê chề trước mặt mọi người, Đức Giêsu: vẫn vững vàng trong thử thách; vẫn gần bó với thánh giá giữa các người bạn cùng đau khổ. Người phó thác trọn vẹn cho Chúa Cha cội nguồn sứ mạng của Người. Và người trộm lành đã sinh ra trong ánh sáng nên đã không nguyền rủa.

Quân lính chế nhạo: “Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu mình đi”.

Trong lúc công cuộc của Người tưởng như vĩnh viễn lụi tàn, Đức Giêsu vẫn kiên vững trong thử thách, vẫn lặng lẽ. Đấng Mêsia – Vua chịu đóng đinh và bất lực cầu khẩn một mình với Chúa Cha “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha” (Tv 30.6). Thái độ của Người trước cái chết đã khiến viên sĩ quan Rôma phải thốt lên những lời đầy hứa hẹn: “Quả thật ông này là người công chính”.

Thủ lãnh trong dân châm chọc: “ông ta đã cứu được người khác: hãy tự cứu mình đi, nếu ông ta là Đấng Mêsia của Thiên Chúa, “Đấng được tuyển chọn”.

Trong khi tất cả mọi người quấy rối, Đức Giêsu vẫn kiên vững trong thử thách, tha thứ cho các đao phủ. Và sự đau khổ cũng như cái chết của Người, được đảm nhận trong tình yêu, đã sinh hoa kết quả: Có người đã tách ra khỏi các thành viên của hội đồng, đó là Giuse người Arimathia.

Có người sẽ hỏi, đâu là gốc rễ lịch sử của đoạn văn mà Mátthêu và Luca thuật lại. H. Cousin trả lời: “Bên cạnh một biến cố xác thực, cuộc tĩnh tâm của Đức Giêsu trong hoang địa sau khi chịu phép rửa, ta phải xét đến 2 thực tại: những cơn cám dỗ chắc chắn phải có, đặc biệt là cơn cám dỗ về chủ nghĩa Mêsia trần tục, vì chúng vẫn tồn tại trong suốt sứ vụ của Đức Giêsu; và Người vẫn kiên trì chống trả không bao giờ chịu lùi bước nhượng bộ. Những dấu vết hiển nhiên tồn tại trong suốt Tin Mừng Luca (10, 25; 11, 6 và kế tiếp; 22, 42…) càng cho ta thấy rõ rằng: Đức Giêsu là một Đấng Mêsia nghèo nàn và đau khổ. Các môn đệ làm chứng Người luôn trung tín với Thiên Chúa, với sứ mệnh mà Người đã lãnh nhận. Luca đã làm cho độc giả hiểu ràng Đức Giêsu đã phải chọn lựa một hình thức thi hành sứ mệnh, một cách thế hiện hữu và không phải dễ dàng để đi đến cùng chọn lựa ấy” (Sđd, trg 63-64).


BÀI ĐỌC THÊM

1. Cơn cám dỗ của Đức Giêsu trong hoang địa: một pha gây cấn

(H. Denis trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDA, trg 111- 112).

Mùa Chay khai mạc – vào Chúa nhật đầu tiên – đưa ta đến trước một cảnh lạ lùng, thậm chí đáng lo ngại: cơn cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa.

Ta muốn nói như Phêrô khi nghe loan báo cuộc khổ nạn: “Không! Thầy không phải chịu như thế. Đôi khi ta cố xoay xở, nhưng đó không phải là linh đạo tối ưu khi giải thích sự vật” như sau: Thực ra, Đức Giêsu không thực sự bị cám dỗ, Người đã chấp nhận bị cám dỗ “vì ta”, để dạy ta biết phải chống lại các cơn cám dỗ như thế nào. Nhưng giá phải trả cho lối giải thích này rất nặng. Làm như Đức Giêsu “giả vờ” không bằng. Rồi sẽ suy ra người giả vở làm người, giả vờ học hành, giả vờ đói giả vờ đau khổ, giả và chết.

Nếu ta muốn chấp nhận Đức Kitô có nhân tính thực sự, ta phải tìm hiểu xem bằng cách nào Đức Giêsu đã thực sự bị cám dỗ ra khỏi con đường thẳng tắp của sứ mệnh của Người, và Người đã chống trả thế nào.

Cơn cám dỗ về bánh để nuôi dân no đủ vốn là cơn cám dỗ của mọi lãnh tụ, có tôn giáo hay không. Đức Giêsu đã chống cự. Nếu có lần Người chấp nhận hoá bánh ra nhiều, đó cũng chỉ nhằm giúp người ta có đủ sức nghe lời phát xuất từ miệng Thiên Chúa và để họ tìm được một thứ lương thực khác: “Này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con”. Cơn cám dỗ về phép lạ, về những điều kỳ diệu cũng đã bị đẩy lui. Phải chăng đó đã là dấu chỉ của một Đức Giêsu chỉ chữa bệnh vì Nước Trời? “Phúc cho ai không thấy mà tin”.

Cơn cám dỗ về quyền lực trên trần gian cũng tinh vi không kém. nhưng Đức Giêsu biết rằng Satan ẩn nấp trong mọi thứ vinh quang không qui về Chúa Cha. Vinh quang của Đức Kitô là vinh quang của sự hiến mình. Điều ấy sẽ được thực hiện trên thánh giá, trong khó nghèo tột độ, khi mọi sự hoàn tất.

2. Những cạm bẫy tương tự trải dài suốt lộ trình của ta

(F. Deleclos, trong ‘hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn’ Centurion-Duculot, trg 193-194).

Thật tốt nếu ta vui vẻ để “Chúa Thánh Thần dẫn vào hoang địa”. Đó là cơ hội sống động cho ta khám phá hoặc tái khám phá ra những cạm bẫy thường xuyên giăng dưới bước chân người Do Thái, những cạm bẫy mà Đức Kitô đã gặp, cũng là những cạm bẫy trải dài suốt hành trình và suốt lịch sử đời ta. Ta hãy học cách vạch trần những cơn cám dỗ để khỏi bị lệch hướng xa đường giao ước, xa đường sứ mạng của ta.

Những cạm bẫy của Thần Dữ toả ra hào quang duyên dáng và lôi cuốn, mời mọc tinh vi và đáng sợ, cộng với trí thông minh và sự kiên nhẫn của “Địch thủ của triều đại Thiên Chúa”.

Đó là cơn cám dỗ dùng Lời Chúa phục vụ mọi ham thích của ta về sở hữu, về hiểu biết, về quyền lực, là những nguồn không bao giờ cạn “của mọi loài hình cám dỗ” luôn quấy phá các tín hữu và các Giáo Hội.

Đó là những ham hố quá đáng đi tìm điều lạ lùng, săn đuổi các cuộc hiện ra, các phép lạ, làm lệch hướng những đòi hỏi khẩn cấp của Tin Mừng.

Đó là cầu nguyện sốt sắng bên ngoài để phiền nhiễu Thiên Chúa, mong rút tỉa được đặc ân tránh khỏi thử thách, khổ đau.

Cạm bẫy còn là những an thân giả tạo, những bảo đảm hão huyền mà ta mải mê tìm kiếm trong một mớ chồng chất những lễ nghi trống rỗng vô nghĩa vô hồn.

Cơn cám dỗ tinh vi cuốn ta vào đủ mọi thứ hy sinh đến từ tinh thần thống trị, lòng ham thích sức mạnh và say mê quyền lực Thiên đường các ngẫu tượng.

Làm cách nào trả lời 3 cuộc cám dỗ tiêu biểu nếu không phải là 3 câu trả lời bằng ăn chay, cầu nguyện và chia sẻ. Gặp gỡ Chúa để Lời chân lý và sự sống đổ đầy vào trái tim ta và vọt ra từ môi miệng ta. Khước từ những phồn vinh muốn chôn vùi ta và khám phá thấy trong sự tiết độ những giá trị vững bền. Tình liên đới làm phát sinh và nuôi dưỡng lòng quảng đại huynh đệ đối với biết bao kẻ đói khát sự công chính và bình an, những người bị loại trừ khỏi tình yêu và lòng kính trọng, những người bị áp bức ở mọi nơi, đám đông mênh mông những người bị đóng đinh nơi đó Đấng giải phóng, Đấng Phục sinh hằng sống đang náu ẩn trong vô danh.




C. CÁC BÀI SUY NIỆM

Bài 1. TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Phụng vụ Giáo hội đã bước vào Mùa Chay Thánh. Mùa Chay trải dài 40 ngày. Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước khi đến Đất Hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa. Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện. Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện. Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.

Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.

Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục ngã trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa. Vua Đavit sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết người anh em này. Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối…Các chước cám dỗ của Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Người Việt Nam cũng thường nói “Con người ta, già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”. Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.

Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng quyền năng Thánh Thần, bằng sức mạnh Lời Chúa, bằng đời sống chay tịnh cầu nguyện và luôn tín thác vào Chúa Cha.

Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình mà đi cùng với Chúa Thánh Thần.

- “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1)

- “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

- “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).

Thánh Thần hướng dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Đây là một hành động hết sức khó hiểu và nghịch lý. Vì Thánh Thần sao lại có thể làm như thế cho Chúa Giêsu? Thế nhưng, cũng qua việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ, mỗi khi chúng ta bị ma quỷ cám dỗ cũng có thể nói được là “Thánh Thần đã dẫn chúng ta đến chỗ để bị cám dỗ”, để qua đó, chúng ta có thể tránh khỏi sa chước cám dỗ.

Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.

Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.

Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).

Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:

- Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa (Lc 4,5)

- Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người (Lc 4,8)

- Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi (Lc 4, 11).

“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ” (Mt 26, 39b) ; “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.

Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: “Hãy tỉnh thức”. Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.

Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn, có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.

Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa.

Sau khi chịu phép Rửa Tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!

Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.

Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.

Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu xa ơn ban của Thánh Thần và đã khuyên nhủ: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24); “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5); “Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2Tm 1,7).

Chúa Giêsu đã dùng lời Thánh Kinh để thắng Satan. Muốn vượt thắng mọi cám dỗ, chúng ta phải yêu mến Lời Chúa, đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa. Sứ điệp Đại Hội Dân Chúa năm 2010 mời gọi: “Hội Thánh tại Việt Nam sẽ đẩy mạnh việc phổ biến và học hỏi Lời Chúa bằng những phương thế khác nhau, để Lời Chúa thực sự trở thành của ăn nuôi dưỡng tâm hồn, kim chỉ nam và ánh sáng soi dẫn mọi quyết định và chọn lựa của các tín hữu” (Số 3).

Mùa Chay là thời gian đặc biệt để ngưới tín hữu xét mình, để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và ơn soi sáng của Chúa Thánh Linh theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mà sống đẹp lòng Thiên Chúa mỗi ngày.


Bài 2. VƯỢT QUA THỬ THÁCH

LM ĐAN VINH

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 4,1-13

2. Ý CHÍNH: CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ

Tin mừng thuật lại việc Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày, sau đó Người đã dùng Lời Thánh Kinh chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ như sau:

- Một là về thú vui nhục dục.

- Hai là về quyền lực lợi lộc.

- Ba là về danh vọng thế gian.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-2: + Được Thánh Thần dẫn đi vào hoang địa: Thánh Lu-ca hay nói tới tác động của Thánh Thần trong cuộc đời Đức Giê-su (x. Lc 1,35 ; 3,16.22). Hoang địa là vùng sa mạc Giu-đa, một giải đất rộng nằm giữa vùng núi gần thành Giê-ri-cô. + Bốn mươi ngày: Con số bốn mươi này gợi lại bốn mươi năm dân Ít-ra-en đi trong sa mạc. + Chịu quỷ cám dỗ: Trong tiếng Do thái, cám dỗ nghĩa là thử thách, giống như một cuộc thi cử. Đứng trước cơn cám dỗ, ta phải lựa chọn giữa sự thiện và sự ác, ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết. + Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói: Nhịn ăn là một trong những hình thức chay tịnh của dân Do thái.

- C 3-4: + “Nếu ông là Con Thiên Chúa”: Quỷ đã nhắc lại lời Chúa Cha phán sau khi Đức Giê-su chịu phép Rửa: “Này là Con Ta yêu dấu” (x Lc 3,22). + Truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!: Đây là cơn cám dỗ về của ăn. Quỷ đã nhận ra điểm yếu của Đức Giê-su là bị cơn đói sau thời gian dài ăn chay, nên nó xúi Người làm phép lạ biến đá thành bánh thỏa mãn nhu cầu của bản thân! Đây là sự cám dỗ chiều theo các đam mê lạc thú thể xác. + “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”: Đức Giê-su dùng câu nói của Mô-sê dạy dỗ dân Ít-ra-en xưa để chống trả cơn cám dỗ này của ma quỷ (x. Đnl 8,3).

- C 5-8: + Quỷ đem Đức Giê-su lên cao: Có lẽ đây là một vị trí cao hơn mặt đất, như thường ghi trong các Khải huyền Do thái. + Trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ: Câu này cho thấy cơn cám dỗ chỉ xảy ra trong tâm trí của Đức Giê-su. + Nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này.”..: Ma quỷ đề nghị chia sẻ quyền cai trị để biến Đức Giê-su thành vị Mê-si-a trần thế theo kiểu vua Đa-vít ngày xưa.

Người sẽ liên kết với nhóm Do thái cực đoan để chiếm lại quyền hành và vinh quang, đánh đuổi quân Rô-ma đang cai trị ra khỏi đất nước (x. Gio-an 6,15). Điều mong ước này không nằm trong chương trình cứu độ và không phải là sứ vụ của Đức Giê-su (x. Lc 10,22). + Đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”: Bái lạy là thái độ của loài thụ tạo phục tùng Đấng Tạo Hóa (x. Mt 2,5 ; 8,2). Dân Do thái khi xưa đã sa ngã phạm tội khi tôn thờ bò vàng, nên đã bị phạt (x. Xh 32,1.31-35). Còn nay Đức Giê-su nhắc lại điều luật Mô-sê truyền cho dân Do thái chỉ được tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi (x. Đnl 6,13).

- C 9-13: + Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem: Lu-ca kết thúc bản tường thuật các cơn cám dỗ tại Giê-ru-sa-lem. + Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”: Sau này trong cuộc khổ nạn tại Giê-ru-sa-lem, các đầu mục Do thái, bọn lính canh và tên gian phi cũng lặp lại cơn cám dỗ này: “Hãy bước xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy mà tin” (x. Mt 27,42b-44). + “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”: Thử thách Thiên Chúa có hai nghĩa: một là như xưa ma quỷ đã cám dỗ dân Do thái lẩm bẩm kêu trách và phản đối Đức Chúa, Đấng đã giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, đang khi lẽ ra họ phải tạ ơn và phó thác cậy trông nơi Người. Hai là quỷ cám dỗ Đức Giê-su lợi dụng lòng tốt của Thiên Chúa để tìm kiếm lợi lộc cho bản thân. Tội này cũng giống tội “trông cậy quá lẽ”, nghĩa là đòi Chúa phải làm phép lạ để thỏa mãn đòi hỏi theo ý riêng mình. + Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ: Thời cơ là cuộc thương khó của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 22,3). Trong vườn cây Dầu, Người đã bị ma quỷ cám dỗ từ chối uống chén đắng đau khổ, nhưng Người đã chiến thắng cơn cám dỗ đó bằng lời cầu xin với Chúa Cha: “Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Trên cây thập giá, Người bị ma quỷ cám dỗ nghĩ mình đã bị Chúa Cha bỏ rơi! (x. Mt 27,46), nhưng Người đã chiến thắng nó qua lời cầu nguyện phó thác hòan tòan vào sự quan phòng của Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

4. CÂU HỎI: 1) Cám dỗ là gì? Khi chỉ bị ma quỷ cám dỗ làm điều xấu trong tâm trí thì đã có tôi chưa? 2) Đức Giê-su đã dùng phương thế nào để chống lại ma quỷ khi bị chúng cám dỗ? 3) Tội “thử thách Thiên Chúa” có đồng nghĩa với tội “trông cậy quá lẽ” không? Hãy nêu một vài ví dụ cụ thể để minh họa về tội “trông cậy quá lẽ” hay tội “thử thách Thiên Chúa”.

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1b).

2. CÂU CHUYỆN: SA CHƯỚC CÁM DỖ

Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa! Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều lần mới thấy “phê”. Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vất mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.

3. SUY NIỆM:

- Con người “nhân vô thập toàn” và dễ sa ngã phạm tội là do hậu quả của tội tổ tông truyền lại, như thánh Phao-lô đã có lần thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Ngoài ra con người còn bị ma quỷ cám dỗ xúi giục phạm tội như nó đã cám dỗ con cháu No-e phạm nhiều tội đáng bị trừng phạt. Dân Ít-ra-en tuy đã được Đức Chúa cứu khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, thế mà cuối cùng cũng đã nghe theo ma quỷ cám dỗ để nói lời xúc phạm đến Đức Chúa và tỏ thái độ vô ơn đối với Mô-sê.

- Nhưng may thay, loài người có Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương chiến thắng ma quỷ khi bị nó cám dỗ trong sa mạc. Sự chiến thắng của Người là nguồn động viên và khích lệ các tín hữu chúng ta trong việc chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Trong Mùa Chay này, noi gương Đức Giê-su, chúng ta hãy vâng theo ơn Thánh Thần hướng dẫn đi vào sa mạc tâm hồn. Hãy cùng với Đức Giê-su giữ sự thinh lặng, siêng năng cầu nguyện và hãm mình chay tịnh, để dễ nhận biết các cơn cám dỗ của ma quỷ. Rồi nhờ việc chuyên cần học sống lời Chúa và ơn Thánh Thần trợ giúp, chúng ta sẽ chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.

- Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta về ba phương diện là: THÚ VUI, LỢI LỘC và DANH VỌNG như sau:

* Về THÚ VUI: Ma quỷ xúi giục Đức Giê-su thỏa mãn cơn đói khát cơm bánh vật chất và ham mê các đam mê lạc thú bất chính. Ngày nay chúng ta cũng thường cảm thấy cồn cào ruột gan và thèm muốn được “ngồi bên nồi thịt và được ăn bánh thỏa thuê”…. như dân Ít-ra-en trong sa mạc khi xưa (x. Xh 16,2tt). Nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng cơn cám dỗ này. Người không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất khi nói: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”, mà còn khẳng định: Lời Chúa cũng cần thiết không kém để nuôi dưỡng đức tin. người tín hữu không được vì lợi nhuận tiền tài vật chất mà bỏ rơi bổn phận ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và phó thác nhu cầu cuộc sống trong tay Chúa quan phòng (x. Mt 6,33).

* Về LỢI LỘC: Ma quỷ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giê-su nếu Người chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền của ma quỷ và đã bán linh hồn mình cho ma quỷ để làm tay sai cho nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và đã lần lượt bị diệt vong. Còn Đức Giê-su chỉ nhận quyền lực từ nơi Chúa Cha (x. Lc 1,32b). Chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8). Chỉ Chúa Cha mới ban quyền cai trị cho Chúa Con là Đức Giê-su, và quyền lực ấy sẽ kéo dài mãi mãi, như lời sứ thần Gáp-ri-en: “Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,33).

* Về DANH VỌNG: Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su tìm kiếm hư danh, bằng cách xúi Người nhảy từ nóc Đền thờ xuống, vì chắc Thiên Chúa sẽ can thiệp kịp thời cứu Người khỏi té ngã (x. Lc 4,10-11). Đó chính là tội “trông cậy quá lẽ”, tội “thử thách Thiên Chúa” do mê tín dị đòan. Đây là tội tự đặt mình vào tình huống hiểm nghèo và buộc Thiên Chúa phải ra tay can thiệp làm phép lạ để cứu mình khỏi chết. Đức Giê-su đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa như thế khi trưng dẫn lời Kinh thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x Đnl 6,16). Người muốn chúng ta phải có một đức tin đơn sơ phó thác, như đứa con thơ nép mình trong vòng tay cha mẹ và không bao giờ nghi ngờ và đòi hỏi cha mẹ phải chứng minh tình thương ấy.

4. THẢO LUẬN: 1) Ma quỷ đã tấn công vào chỗ yếu của Đức Giê-su là bị đói sau khi nhịn ăn bốn mươi ngày. Còn chỗ yếu của bạn hiện nay là gì? 2) Để chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ cách hữu hiệu, bạn cần sử dụng các phương thế nào noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay?

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Bị cám dỗ là thân phận của con người. Nhưng chúng con chỉ thắng được cơn cám dỗ khi biết cậy nhờ vào ơn trợ giúp của Chúa. Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao điều cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những dục vọng thầm kín trong chúng con như: Muốn chiếm đoạt của cải người khác cách bất chính và muốn thống trị tha nhân, muốn được sống buông thả theo tính xác thịt tự nhiên. Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con được hoan lạc hạnh phúc đang khi thực ra chúng chỉ mang lại những âu sầu thất vọng.

- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ nhờ ơn Thánh Thần, nhờ biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, nhờ sự chay tịnh và luôn làm chủ bản thân. Xin cho chúng con dám lội ngược dòng để đi con đường hẹp và leo dốc của Chúa: Con đường nghèo khó khiêm nhu và hy sinh phục vu tha nhân noi gương Chúa xưạ. Ước gì sau những lần chiến đấu vất vả cam go, chúng con sẽ được lớn lên trong tình yêu Chúa. Và ngay cả khi chúng con lỡ sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết trỗi dậy cậy trông vào lòng khoan dung của Chúa và mau mắn quay về làm hòa với Chúa nhờ bí tích giải tội.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A

Đ) XIN CHÚA NHẬN LỜI CHÚNG CON

Bài 3. VƯỢT THẮNG MÌNH

JM. Lam Thy ĐVD.

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật việc “Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4, 1-2). Cám dỗ – theo từ nguyên – chỉ có nghĩa “Khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã”. Là con người, ai mà chẳng có dục vọng (lòng ham muốn). Tâm địa con người cũng giống như một ruộng lúa, trong đó không thiếu cỏ lùng, bởi trong con người luôn luôn có cốt cách của một vị thánh nhân cũng như của một tên đại bợm (ngạn ngữ Tây phương). Bản chất cám dỗ là nguy hiểm, nhưng ác một nỗi những cơn cám dỗ lại luôn luôn là một sự dễ chịu, ngọt ngào, lôi cuốn. Vì thế, mới khiến con người dễ bị sa ngã. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là Đức Giê-su Thiên Chúa chịu cám dỗ nên mới nảy sinh vấn nạn: “Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, mà lại chịu để ma quỷ cám dỗ ư?”

Quả thực, đó cũng là thắc mắc chung của con người muôn thuở. Nhưng nếu suy nghĩ sâu hơn một chút sẽ thấy “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.” (Pl 2, 6-7). Trước hết, đối với Thiên Chúa Cha, Đức Giê-su đã “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” để thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại. Người chịu chết tức là Người bằng lòng sống kiếp phàm nhân, hay nói cách khác, Người chấp nhận mặc lấy bản tính loài người, mà đã là loài người thì rất dễ bị vật chất, quyền lực, danh vọng cám dỗ, mê hoặc. Vâng, ở đây là Đức Giê-su Thiên-Chúa-làm-người, Người đã “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết”, nên Người cũng vâng lời chịu để Thần Khí dẫn vào hoang địa chịu cám dỗ. Ấy là chưa kể đây còn là dịp Đức Giê-su mạc khải cho loài người thấy được sự thâm hiểm độc ác của ma quỷ, chúng không từ một thủ đoạn nào để có thể hạ gục đối thủ, cho dù đối thủ ấy có là Con Thiên Chúa đi nữa. Và bài học Chúa Ki-tô muốn dạy chúng ta chính là khi sống kiếp phàm nhân thì sẽ bị lửa thử thách, và chỉ những người vượt thắng được bản thân, sẵn sàng để lửa thử thách trui rèn, mới có hy vọng trở nên trọn hảo được (“Quả thật, con đường tôi đi, Người đã biết, Người có đem tôi thử trong lò, tôi sẽ nên như vàng tinh luyện” – G 23, 10). “Lửa thử vàng, gian nan thử sức” (tục ngự VN) chính là vậy.

Cứ xét chuyện Đức Giê-su bị cám dỗ sẽ thấy ma quỷ rất sành tâm lý, chúng không chỉ cám dỗ về vật chất mà còn cả về tinh thần nữa: Về vật chất, chúng đem miếng ăn, sự vinh hoa phú quý trần thế làm mồi nhử; về mặt tinh thần, chúng đánh ngay vào tính tự cao tự đại của con người, lấy quyền lực siêu phàm làm mồi nhử. Trước hết, chúng biết Đức Giê-su vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, chắc chắn Người phải đói bụng, vậy thì miếng ăn lúc này là mồi nhử hữu hiệu nhất. Tuy nhiên, có một điều rất đáng lưu ý là ma quỷ không đưa bánh thật ra, mà lại đưa một hòn đá rồi bảo Đức Giê-su hoá phép cho hòn đá ấy biến thành bánh mà ăn. Cái quỷ quyệt của ma quỷ chính ở điểm này, bởi với một con người bình thường thì chúng chỉ cần đưa ra miếng bánh, nhưng đây lại là Con Thiên Chúa đầy quyền năng, vì thế chúng nhắm vào tâm lý của loài người là kiêu ngạo, hiếu thắng, muốn chứng tỏ mình, để kích động Chúa. Và nếu vì đói bụng, Chúa làm phép lạ biến đá thành bánh để ăn, thì Chúa đã mắc mưu thâm độc của chúng. Không ngờ đối thủ lại cho rằng còn một thứ cao lương nuôi sống con người hơn là cơm bánh, đó là: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” Và thế là mồi nhử trở thành vô vị!

Không đánh vào cái bụng đói của Chúa được, ma quỷ lại xoay qua mặt phú quý vinh hoa là mồi nhử hấp dẫn nhất đối với con người. Chỉ cần quy phục, quỳ lạy chúng, sẽ được tất cả. Thất bại vì mồi nhử là miếng ăn, lần này ma quỷ tin chắc sẽ thắng và nếu đối tượng bị khuất phục, thì chúng sẽ càng vênh váo tự phụ “Con Thiên Chúa còn bái lạy chúng, huống chi loài người!” Nhưng chúng không thể ngờ được là sự vinh hoa phú quý trần thế cũng không thể cám dỗ được Đức Giê-su. Người trả lời thẳng: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” Dụ người ta bái lạy mình, không ngờ lại bị người ta dùng chiêu “gậy ông đập lưng ông” nói mình phải bái lạy người ta mới là đúng, những tưởng như thế thì ma quỷ chỉ còn một cách “tam thập lục kế, dào vi thượng sach” (36 kế, chạy trốn là hay nhất), không ngờ chúng vẫn lỳ lợm.

Cuối cùng thì ma quỷ xoay qua mặt tâm linh, đó là tính kiêu ngạo của con người. Nếu là một con người bình thường, khi biết chắc là mình có nhảy xuống từ nóc Đền Thờ cao chót vót cũng sẽ được “Thiên Chúa truyền cho thiên sứ tay đỡ tay nâng”, chắc chắn họ sẽ nhảy xuống liền, và như thế sẽ được hoan hô ca tụng tận mây xanh. Lòng kiêu căng tự phụ được ve vuốt, đối với con người thì còn gì hơn thế nữa? Ngay từ Nguyên tổ của loài người, chuyện này cũng đã xảy ra: Khi rắn (ma quỷ) xúi bà E-va ăn trái cấm, bà còn e ngại vì nhớ Lời Đức Chúa: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết”, thì ngay lập tức “Rắn nói với người đàn bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” (St 2, 4-5). Ấy thế là Nguyên tổ phạm tội, loài người bị tội lỗi thống trị. Loài người là vậy đó, nhưng với Đức Giê-su thì vì Người là Thiên Chúa, nên Người quở mắng liền: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” Và thế là “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ” (Lc 4, 13). Thánh Lu-ca chỉ viết vậy, nhưng thánh Mat-thêu còn mạnh tay hơn, ghi lại nguyên văn Lời Chúa xua đuổi: “Sa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4, 10) và ma quỷ thất bại hoàn toàn, bỏ đi một nước. Thật là thú vị!

Câu chuyện Đức Giê-su vào hoang địa 40 ngày để chịu ma quỷ cám dỗ cũng là một cách Người sống theo truyền thống để làm gương cho các môn đệ và tín hữu, vì “Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5, 18). Cũng như trước đó, thánh Gio-an Tiền Hô khi bắt đầu rao giảng cũng vào trong hoang địa 40 ngày. Xa hơn nữa, tổ phụ A-bra-ham, ngôn sứ Mô-sê, tiên tri Ê-li-a… cũng đều vào hoang địa, vượt qua hoang địa, để chịu và vượt qua được thử thách. Như vậy, hoang địa chính là những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu. Ở nơi hoang địa, cùng lúc đương đầu với thử thách, với nghịch cảnh, với cám dỗ của ba thù, còn được gặp gỡ Thiên Chúa. Ông Mô-sê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Si-nai, đã gặp và trở nên bạn của Chúa, mặt ông trở nên sáng láng lạ lùng. Tiên tri Ê-li-a, sau 40 đêm ngày, đã đi tới núi của Chúa và gặp được Người.

Những cuộc vào hoang địa của tổ phụ, của các thánh nhân, các tiên tri và kể cả của Đức Giê-su Ki-tô, thường trải qua thời gian 40 ngày. Giáo Hội cũng dùng Mùa Chay với thời gian 40 ngày để tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su, và mời gọi tín hữu hãy vào hoang địa với Người để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Mà muốn rèn luyện tâm trí, cách tốt nhất là đối diện với nghịch cảnh, ở đây là đối diện với hoang địa – nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào – nơi chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỉ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.

Chúng ta vẫn thường hay nói đến “sa mạc, hoang mạc cuộc đời” để ám chỉ cõi lòng (tâm hồn) hoang dại, trống vắng đến khủng khiếp trước cuộc đời đầy phong ba bão táp, đầy gian nan thử thách. Cái sa mạc ấy, cái hoang mạc ấy – cái cõi lòng hoang vắng ấy – phải chăng cũng chính là hoang địa? Chúng ta không có điều kiện để vào nơi hoang địa của thiên nhiên, nhưng chúng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời. Khi vào hoang địa thiên nhiên, chúng ta trực diện với những khó khăn thử thách: từ bên ngoài (khách thể) như thời tiết (ngày nóng khủng khiếp, đêm lạnh cóng da), thú dữ, cát đá vô tri, ác thú nguy hiểm; từ bên trong (chủ thể) như sự cô đơn lạnh lẽo, thiếu lương thực, không trợ lực. Tất nhiên những thứ đó không phải là những cám dỗ của ba thù, mà đó chính là những thử thách để con người trui rèn ý chí, tôi luyện quyết tâm đối kháng. Và nhờ thế, khi bị cám dỗ trong hoang địa cuộc đời (còn nguy hiểm hơn hoang địa thiên nhiên gấp bội), con người mới có thể chống lại và hy vọng chiến thắng.

Thế thì tại sao ta không mạnh dạn đi vào hoang địa cuộc đời của chính chúng ta để thẳng thắn “nhìn lại mình”, sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thách đố, sẵn sàng khai thông hoang địa, sẵn sàng dọn đường mở lối để được gặp gỡ Thiên Chúa – và nhất là biết sẵn sàng từ bỏ ý riêng để luôn tìm thánh ý Thiên Chúa, hầu biết được đâu là lời mời gọi của Thiên Chúa, đâu là sự cám dỗ của ba thù. Điều đáng lo lắng, sợ hãi chính là điều chúng ta rõ ràng đang ở trong hoang địa cuộc đời, mà lại vẫn tưởng mình đang ở trong Thiên đường, ở trong Đất Hứa, để rồi tự ru mình trong những mời gọi ngọt ngào, những cám dỗ lôi cuốn. Đến ngay như đã thực sự ở trong Đất Hứa cũng vẫn có thể bị kẻ thù cám dỗ (“Đề phòng các cám dỗ khi vào đất hứa” – Đnl 8, 1), huống hồ là tưởng tượng, là ảo tưởng đang ở trong Đất Hứa!

Như vậy, phải chăng chính những ham muốn (dục vọng) của con người đã tạo nên những ảo tưởng, để rồi lại quay ngược mũi giáo cám dỗ chính mình? (“Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt. Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết” – Gc 1, 14-15). Và vì thế, vào hoang địa cuộc đời, ngoài vấn đề hãm mình ép xác (chịu thử thách để vượt thắng thử thách), còn phải là: Vào hoang địa để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa, để xin ơn soi sáng hầu phân biệt được điều thiện điều ác, và nhất là để xin Thánh Thần thêm sức mạnh để vượt thắng chính mình, đủ sức chống chọi với ba thù. Vâng, xin “hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13, 11-14). Thiết nghĩ chỉ có như thế mới hy vọng đủ sức chiến đấu và chiến thắng được cám dỗ.

Nói tóm lại, người Ki-tô hữu ngày hôm nay “hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5, 6-9). Muốn “quẳng gánh lo đi và vui sống” (Nguyễn Hiến Lê), thật không gì bằng “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người”, và để những tâm nguyện đó, những ao ước đó, những cầu xin đó sẽ đạt được hiệu quả tối đa, xin hãy cậy nhờ vào một cây cầu nối vững chắc giúp chúng ta đến với Chúa một cách an toàn: Đó chính là Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của tất cả chúng ta.

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, hằng năm Chúa ban cho chúng con bốn mươi ngày chay thánh, để tôi luyện hồn xác chúng con. Xin giúp chúng con sống những ngày khắc khổ ấy, để học biết Ðức Ki-tô, và dõi theo gương Người, hầu xứng đáng hưởng ơn Người cứu độ. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN.I Mùa Chay). Ôi! Lạy Mẹ từ bi lân tuất, “Chốn ba đào nhiều phen nguy biến, quanh chúng con ma quỷ chực liên. Ôi! Mẹ lành nhìn con giao chiến, thêm sức cho giúp con vững bền. Rồi khi giờ yếu đau hấp hối, ngàn chước độc quỷ ma đưa tới. Giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền, nâng đở con xác hồn tinh tuyền…” (“Chốn ba đào” – TCCĐ).

Bài 4. Chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giê-su

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Có vô vàn cám dỗ hủy diệt cuộc đời

Con người dùng mồi bọc lưỡi câu để dụ cá và giật chúng lên khỏi nước để rồi kết liễu cuộc đời của chúng trên bàn ăn. Vô số cá tham mồi đã sa vào cám dỗ của con người và phải chết tức tưởi trước thời hạn.

Một số nhà nông hiện nay thường dùng những hóa chất có mùi hương đặc biệt có sức thu hút hàng ngàn con ruồi vàng đục trái và hủy diệt chúng ngay khi chúng vừa xáp tới hít phải mùi hương hấp dẫn nầy. Vô số ruồi đục trái phải chết tức thời cũng vì sa vào cám dỗ của người nông dân.

Những kẻ nghịch thù thường dùng gái đẹp và rượu ngon để làm mê muội lòng trí những ông vua đầy quyền lực hầu triệt hạ nhà vua và chấm dứt triều đại của ông. Thế là rất nhiều ông vua say đắm tửu sắc bị mắc vào cạm bẫy của kẻ thù và phải chết chìm trong vũng lầy êm ái.

Cám dỗ có thiên hình vạn trạng

Cám dỗ diễn ra dưới nhiều dạng thức như tiền tài, danh vọng, địa vị chức quyền, lạc thú…

Cám dỗ có thể từ bên ngoài thâm nhập vào con người qua cả ngũ quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác.

Cám dỗ cũng còn ẩn sâu từ cõi lòng và thôi thúc từ bên trong, đó là tham lam, ham muốn, kiêu căng, giận hờn… xui khiến người ta chìm vào tội lỗi.

Thông thường hơn, có những cám dỗ rất gần gũi với đời sống hằng ngày, đang vây bọc chung quanh chúng ta và chi phối, chế ngự cuộc đời chúng ta.

Nhà thơ Tú Xương có nêu tên vài cám dỗ rất thường tình nhưng cũng là những cám dỗ bất tận trong kiếp người, như:

“Một trà, một rượu, một đàn bà,

Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…”

Ca dao Việt Nam cũng nói đến sự cám dỗ của thuốc lá khiến nhiều người không kháng cự nổi:

“Nhớ ai như nhớ thuốc lào,

đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.”

Thế là con người phải luôn luôn đương đầu với vô vàn cám dỗ có nguy cơ hủy diệt nhân cách và phẩm chất của mình.

Cám dỗ không buông tha bất cứ ai

Cám dỗ không chừa bất cứ ai. Các môn đệ Chúa Giê-su ngày xưa cũng bị cám dỗ được làm lớn, (Mc 9,34) được ngồi bên tả bên hữu chiếc ngai vàng mà họ tưởng là Thầy Giê-su sẽ chiếm lấy (Mc 10,37).

Ngay cả Chúa Giê-su cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ trong cuộc đời. Mặc dầu Người thực sự là Thiên Chúa nhưng vì Người cũng hoàn toàn là con người như chúng ta, nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Do-thái 4,15).

Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến không phải một mà là đến ba cơn cám dỗ của Chúa Giê-su.

Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh (Lc 4,3).

Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, “toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này” (Lc 4, 5-7). Cám dỗ nầy còn được lặp lại khi dân chúng muốn tôn Chúa Giê-su làm vua (Gioan 6,15).

Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, chẳng hạn như đứng trên “nóc Đền Thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11).

Dù bị cám dỗ về mọi mặt y như chúng ta, nhưng Chúa Giê-su không bao giờ thua trận. Người chiến thắng tất cả mọi thứ cám dỗ cách vẻ vang. Vũ khí Người sử dụng để chống lại các chước cám dỗ là lòng yêu mến Chúa Cha, luôn vâng phục Chúa Cha và cố công làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng.

Cùng với Chúa Giê-su, chúng ta kiên quyết chống lại mọi cơn cám dỗ trong cuộc đời

Thân phận con người như lau sậy yếu đuối, bị lắc lư nghiêng ngả giữa muôn luồng gió cuộc đời. Đời sống con người chơi vơi như cánh bèo trên mặt nước, dễ dàng bị trôi dạt bởi sóng nước vây phủ tư bề.

Vì cám dỗ có thể đến từ mọi phía nên chúng ta phải luôn tỉnh táo để không bị chúng bất thần xông tới hủy diệt chúng ta.

Vì cám dỗ có tính cách trường kỳ, chỉ chấm dứt khi con người tắt thở nên chúng ta phải thường xuyên rèn luyện để có thể bền gan chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.

Vì cám dỗ có thể hủy diệt những phẩm chất cao đẹp của con người và biến người ta thành nô lệ cho dục vọng đen tối, cho bản năng hư hèn, nên chúng ta không thể để cho mình thua trận.

Noi gương Chúa Giê-su, chúng ta hãy chọn làm theo ý Chúa hơn là theo ý mình, cố gắng làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự, gắn bó với Chúa Giê-su, cầu nguyện với Chúa Giê-su để xin Người giúp chúng ta chiến thắng.

Bài 5. Những thách đố muôn thuở

AM Trần Bình An

Thánh Bênêđictô đã trải qua ba năm sống một mình trong núi. Ma quỷ thường hay cám dỗ ngài trở về quê nhà với đời sống tiện nghi và thoải mái. Tuy nhiên, thánh nhân đã vượt qua những cám dỗ này bằng các việc cầu nguyện và đền tội. Một ngày kia, ma quỷ lại tiếp tục cám dỗ Bênêđictô, nghĩ tưởng đến một phụ nữ xinh đẹp, mà có lần Bênêđictô đã gặp thấy ở thành Rôma. Ma quỷ cố gắng làm cho thánh nhân trở về tìm lại bà ấy. Bênêđictô dường như sắp nhượng bộ cơn cám dỗ này. Nhưng thay vào đó, thánh nhân đã sốt sắng cầu nguyện và đền tội nhiều hơn. Và từ đó trở đi, đời sống của Bênêđictô rất bình an. Bênêđictô không còn cảm thấy những cơn cám dỗ cuồng loạn như thế nữa. (Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC, dịch, Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ)

Không riêng gì các Thánh, mà bất cứ ai sống trên cõi đời ô trọc này, đều phải chịu thường xuyên các cơn cám dỗ hằng ngày. Đó là một thách đố muôn thuở của con người. Từ Thứ Tư lễ Tro vừa qua, với tinh thần sám hối, ăn năn, Giáo Hội dẫn dắt Kitô hữu vào Chúa Nhật I Mùa Chay, mở đầu bằng ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong hoang địa.

Cám dỗ bản năng

Trong 40 ngày chay tịnh, Chúa Giêsu không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói với Người:”Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, (Lc 4, 3-4) nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4)

Bản năng sinh tồn trổi dậy, khi cơ thể đói khát, yếu đuối, mệt nhọc, kiệt sức. Đây là cơ hội cho ma quỷ lợi dụng thao túng cám dỗ, khiến con người dễ sinh tật đói làm càn. Chúng cám dỗ Chúa hãy kiêu căng tự phụ, là Con Thiên Chúa, để vung tay làm càn phép lạ hóa đá ra bánh. Nếu nghe theo lời xúi giục, làm sao Người còn vâng lời Chúa Cha, mang lấy thân phận con người, để rồi chịu hy tế, hoàn tất công cuộc Cứu Độ.

Thông thường những cám dỗ bản năng hay được phóng đại, tô màu, khéo léo dán lên những cái mác mỹ miều, như bảo vệ an toàn sự sống, hay nhu cầu thiết yếu và chính đáng để sống còn, sống mạnh, sống dai.

Khi cuộc sống ổn định, bớt lo toan cái ăn cái mặc, tôi lại muốn ăn ngon mặc đẹp, ước muốn thỏa mãn những đòi hỏi vật chất xa hoa, cao cấp hơn. Tôi dần dần biến thành nô lệ cho bản năng, cho chính nhu cầu giả tạo. Khi đã êm ái lọt vào vòng kiểm tỏa của ma quỷ, tôi đương nhiên bị vong thân, đánh mất niềm cậy trông vào Chúa Quan Phòng, hoàn toàn xa lìa Chúa.

“Người ta sống không chỉ nhờ bánh mà còn nhờ Lời Chúa”: Thánh Thể, Thánh Kinh, Thánh Nguyện. Nếu không, con không có sự sống Thần Linh. (Đường Hy Vọng, số 136)

Cám dỗ thế quyền

Cám dỗ bản năng thất bại, ma quỷ quay ra cám dỗ quyền lực thế gian. Một thứ mà hầu hết ai cũng mê say, ai cũng cố gắng tìm cho mình một danh phận, một chỗ đứng, ít ra cũng để hãnh diện với đời. Hơn nữa, quyền lực còn đem lại của cải, sung túc, giàu có, đặc quyền, đặc lợi, cho bản thân và cả dòng tộc con cháu. Tệ hại hơn, khi “quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ không có đạo đức” (Albert Einstein).

Rồi quỷ nói với Người:“Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy nều ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng:“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của người, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Lc 4, 6-8)

Quyền lực chân chính luôn đem công lý, hòa bình và hạnh phúc, còn quyền lực đen nô lệ hóa cả dân tộc. Trong Cộng Đồng, hay Cộng Đoàn, Giáo Phận, hoặc Giáo xứ, đôi khi cái bả quyền lực còn trầm trọng gây nên phân hóa, chia rẽ, cục bộ, phe nhóm, vì bị lạm dụng phục vụ cho thói háo danh, háo chức, háo quyền, địa vị. Chẳng thế, Pierre Pasquier trong một cuốn sách khảo về xứ sở và con người Việt Nam (Annam d’Autrefois) từng chua chát nhận xét: “Trong mỗi người Việt Nam có một ông quan và một nhà thơ”.

Còn thói gia trưởng nô lệ hóa gia đình. Ngay trong tế bào của xã hội, gia đình cũng là môi trường gay gắt tranh giành quyền lực giữa vợ chồng. Đôi bạn phối ngẫu cũng vì quyền lực mà có thể xào xáo, chia rẽ, ly thân, ly dị, huống chi trong xã hội phức tạp, nhiều giai cấp cao thấp khác biệt và chí chóe tranh sống với nhau.

“Thiên Chúa là bí quyết của nhà lãnh đạo: Ngài ban uy quyền và không bỏ ai dựa vào quyền năng của Ngài để lãnh đạo. Tinh thần khiêm nhường và lòng bác ái là căn bản; Phúc Âm của Ngài hướng dẫn nhà lãnh đạo.” (Đường Hy Vọng, số 871)

Cám dỗ thần quyền

Khi thách thức Thiên Chúa, người ta muốn hạ bệ Ngài, đồng thời nâng mình lên ngang hàng với Ngài. Đó là cơn cám dỗ thần quyền, là mối tội đầu, tội kiêu căng bắt nguồn từ thời nguyên thủy, khi Adam và Eva ăn trái cây biết lành biết dữ. Tánh kiêu ngạo biến tướng dưới nhiều hình thức, như lộng ngôn, phạm thượng và chống báng Thiên Chúa.

Ma quỷ bộc lộ xúc phạm công khai đến Thiên Chúa, khi thách thức Chúa Giêsu gieo mình từ nóc Đền Thờ xuống, Người đáp lại: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Lc 4, 12)

Ngày xưa, trong sa mạc, dân Israel đóng trại ở Rơphiđin, nhưng tại đấy không có nước cho dân uống. Dân gây sự với ông Môsê. Họ nói: “Cho chúng tôi uống đi!” Ông Môsê nói: “Tại sao anh em lại gây sự với tôi? Tại sao lại thử thách Đức Chúa?” Ở đó dân khát nước, nên đã kêu trách ông Môsê rằng: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, súc vật chúng tôi bị chết khát hay không?” Ông Môsê kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con.” (Xh17, 2 – 4) Đức Chúa phán bảo ông, lấy cây gậy đã rẽ nước sông Nil, mà đập vào tảng đá, cho tuôn trào nước ra để dân uống. Ông đặt tên cho nơi ấy là Maxa và Mơriva, vì con cái Israel đã gây sự và thử thách Đức Chúa, mà rằng: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17, 6 -7)

Bây giờ, mỗi khi khẩn cầu những điều gì mà không được như ý, tôi lại mau ngã lòng, trách cứ Chúa quay mặt làm ngơ, không chịu thương ban. Nhiều khi còn đặt điều kiện với Chúa khi kêu xin: “Nếu Chúa ban cho con ơn này, thì con sẽ làm công quả cho nhà Chúa”…Tôi đã vô tình hạ thấp Chúa xuống, như một đối tượng giao dịch, kỳ kèo, ký kết hợp đồng thương vụ. Tôi đã xúc phạm vô cùng nặng nề đến Chúa, khác chi ma quỷ dám mạo phạm thách đố Chúa nhảy xuống khỏi nóc Đền Thờ!

Lạy Chúa Giêsu, thế gian đang muốn gạt bỏ Chúa sang một bên. Xin Chúa ban cho con thêm sức mạnh, thêm dũng khí để thoát khỏi những cám dỗ nguy hiểm, những tà thuyết vô thần, mà luôn noi gương Thánh Bênêđictô ăn chay và cầu nguyện, để chống trả vượt qua.

Lạy Mẹ Maria, xin ban cho con tấm lòng khiêm nhường và vâng phục theo Thánh Ý Chúa như Mẹ, để con có thể thoát khỏi những chước cám dỗ ngày càng tinh vi của ma quỷ dai dẳng hằng ngày. Amen.

Bài 6. THÁI ĐỘ VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA KẺ TIN!

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Phần đông giáo dân đều hiểu rằng Mùa Chay là khoảng thời gian ăn năn sám hối nên việc ăn chay, cầu nguyện và làm việc lành phúc đức được mọi người đặc biệt quan tâm thực hiện. Hiểu như vậy không sai tý nào. Nhưng nếu hiểu cách sâu xa và bao trùm hơn thì Mùa Chay chính là thời gian để các tín hữu thể hiện thái độ và hành động của mình với tư cách là kẻ tin.

Từ lời ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en (bài đọc 1) đến lời của Thánh Phao-lô viết cho cộng đoàn tín hữu Ro-ma (bài đọc 2) và lời nói và việc làm của Chúa Giê-su trong cuộc chiến đấu với Xa-tan (bài Phúc Âm) đều làm nổi bật thái độ và hành động của những kẻ tin vào Đức Chúa là Thiên Chúa.

Vậy chúng ta hãy đọc kỹ và suy niệm ba bài Sách Thánh để hiểu và thể hiện cách rõ rệt thái độ và hành động của kẻ tin vào Thiên Chúa.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Trong bài đọc 1 (Đnl 26, 4-10): Lời tuyên xưng đức tin của dân được tuyển chọn.

2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 10, 8-13): Người tín hữu tuyên xưng đức tin vào Đức Ki-tô

2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 4,1-13): Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu cám dỗ.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH

3.1 Chân dung của Thiên Chúa

3.1.1 Bài đọc 1 (Đnl 26,4-10) là những lời của ông Mô-sê giảng giải cho dân Ít-ra-en về cách họ phải đối xử với Thiên Chúa như thế nào cho tương xứng. Ông đã khéo léo nhắc lại cách vắn gọn lịch sử của dân và cách Thiên Chúa đã cứu dân khỏi cảnh nô lệ Ai-cập và đưa dân vào Đất Hứa. Nhờ có đất và sự quan phòng đầy thương yêu của Thiên Chúa mà dân mới có hoa mầu, lương thực, sữa và mật… Vì thế dân Ít-ra-en dâng lên Thiên Chúa của lễ đầu mùa là để tỏ lòng biết ơn và quy phục Vị Chúa Tể Vũ Trụ và Lịch Sử của mình.

Trong trích đoạn Đnl 26,4-10 trên, chúng ta khám phá ra nhiều nét đáng yêu trên dung mạo của Thiên Chúa: Trước hết Thiên Chúa là Đấng đã nghe thấy lời kêu than của những người bị áp bức. Kế đến Thiên Chúa là Đấng ra tay giải thoát họ. Sau cùng Thiên Chúa là Đấng đồng hành với dân trong suốt cuộc hành trình vào Đất Hứa. Trong biến cố Xuất Hành (cũng là Vượt Qua) của dân Ít-ra-en, Thiên Chúa tự mạc khải vừa là Đấng yêu thương, vừa là Đấng quyền năng. Đó cũng chính là Thiên Chúa mà chúng ta tìm kiếm, tôn thờ và sống cùng!

3.1.2 Bài đọc 2 (Rm 10,8-13) là những lời Thánh Phao-lô Tông đồ nói về đối tượng của niềm tin của các Ki-tô hữu. Đối tượng đó là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. So với những người Do-thái thì các Ki-tô hữu chúng ta đã tiến thêm được một bước trên con đường tìm kiếm, gặp gỡ và hiểu biết Thiên Chúa. Hay đúng hơn là mạc khải của Thiên Chúa đã chuyển sang một giai đoạn mới: Thiên Chúa tự mạc khải trong/qua Con Một là Chúa Giê-su Ki-tô. Để xứng đáng với hồng ân vĩ đại ấy của Thiên Chúa, các Ki-tô hữu vừa phải tin trong lòng vừa phải tuyên xưng ngoài miệng tức bằng lời nói và việc làm.

Trong trích đoạn Rm 10,8-13 trên, chúng ta nhận ra Lời Thiên Chúa rất gần chúng ta, ở ngay bên, thậm chí ở trong chúng ta. Hơn nữa Lời ấy đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta, làm bầu làm bạn và đồng hành với chúng ta, chuộc hết lỗi lầm của chúng ta để cho chúng ta được hòa giải và sống trong tình yêu của Cha. Đó là Chúa Giê-su Ki-tô mà chúng ta tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng. Cách tuyên xưng thuyết phục nhất là sống theo giáo lý, mệnh lệnh, giới răn của Chúa.

3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 4, 1-13) là đoạn Phúc âm Lu-ca tường thuật cách sống động và tỷ mỷ về những cơn/đợt/chước cám dỗ mà xa-tan đã bày ra với Chúa Giê-su trong hoang địa. Xa-tan tìm hết mọi cách để kéo Chúa Giê-su ra khỏi vòng thân mật và đường lối của Thiên Chúa. Còn Chúa Giê-su thì nhất định không nhượng bộ Xa-tan một ly một tý nào. Của cải, vinh hoa, phú quý, lạc thú, quyền lực…. đối với Người, chả là gì cả! Trước sau Chúa Giê-su chỉ nghe Lời của Cha, chỉ thực hiện chỉ thị của Cha, chỉ tìm kiếm những gì làm đẹp lòng Cha mà thôi!

Qua đoạn Phúc Âm Lc 4, 1-13 này, chúng ta thấy Chúa Giê-su quả là Con Chí Ái của Cha và là mẫu mực cho cách sống -từ suy nghĩ qua lời nói và đến hành động- quy phục Thiên Chúa với tất cả lòng yêu thương, trí sáng suốt và ý chí kiên cường. Chúng ta hãy học với Người để (a) không bị Xa-tan, thế gian và xác thịt lừa gạt hay gài bẫy và (b) để luôn được sống trong tình thân và sự quy phục Thiên Chúa.

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là thề hiện thái độ và hành động của những kẻ tin vào Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã cứu thoát và hướng dẫn chúng ta từng giây từng phút. Chúng ta cứ nhìn vào Chúa Giê-su mà học theo: trong cơn cám dỗ của Xa-tan, Người đã kiên cường thể hiện thái độ và hành động của Người Con Chí Ái của Cha, Người Con mà Cha hết sức hài lòng.

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa

Là Đấng rất gần gũi và thân thương đã ra tay cứu thoát con dân Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ Ai-cập và đưa dân vào Miến Đất Hứa.

Là Chúa Giê-su, Đấng đã chiến thắng thần dữ là xa-tan trong hoang địa để gắn bó với Đấng đã sai Người đến trần gian để cứu chuộc nhân loại tội lỗi.

Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn thông hiệp với Chúa Cha và với Chúa Con (Chúa Giê-su) trong mọi công trình tạo dựng và cứu độ nhân loại.

4.2 Thực thi Sứ điệp của Người

Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình xem hàng ngày/tuần tôi sống với Thiên Chúa như thế nào:

* Tôi có chạy đến với Thiên Chúa và kêu cầu Người mỗi khi tôi bị áp bức, bóc lột, đau khổ không? Hay tôi chạy đến thày bói, tử vi, tướng số, cầu cơ, bùa ngải, người đời để cậy nhờ trong những lúc gặp khó khăn, bế tắc?

* Tôi có cảm nhận được Thiên Chúa là Đấng hết sức gần gũi, lắng nghe, ra tay cứu vớt và ban muôn vàn ơn cho tôi không?

* Tôi có thể hiện thái độ và hành động của kẻ tin vào Thiên Chúa hay tôi sống chẳng khác gì những người không biết, không tin Chúa?

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI

5.1 «Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để giải thóat chúng tôi.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho loài người ngày hôm nay, nhất là cho những người bị áp bức, lầm than, cơ cực về vật chất cũng như tinh thần, để họ được Thiên Chúa đoái thương và giải thoát.

Xướng: Chúng ta hãy cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!

5.2 «Khi anh (em) đến dâng của đầu mùa, tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh (em) và đem đặt trước bàn thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Hội Thánh Công Giáo khắp năm châu, cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để mọi Ki-tô hữu biết thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa là Nguồn Mạch Mọi Ơn!

5.3 «Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, được ơn yêu mến việc đọc, học và suy niệm Lời Chúa để hàng ngày được Lời Chúa nuôi dưỡng một cách phong phú và bền lâu.

5.4 «Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả những ai đang mòn mỏi chờ đợi được giải thoát khỏi cảnh bệnh tật, đói nghèo, bất công, áp bức, để họ cảm nghiệm được Lời Chúa là Lời hằng sống và linh nghiệm!


Bài 7. Cám dỗ

Trầm Thiên Thu

Cám dỗ là gì? Từ điển Wikitionary định nghĩa: “Cám dỗ là khơi dậy lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã”. Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam (Nguyễn Lân, NXB TPHCM, 1998) định nghĩa: “Cám dỗ là tìm mọi cách quyến rũ làm việc gì không hay”.

Dù định nghĩa thế nào thì vẫn cho thấy sự cám dỗ có động lực xấu xa, trái với luân thường đạo lý, mang tính liên đới là gây hậu quả xấu cho chính mình và người xung quanh. Cám dỗ chẳng trừ ai – nam, phụ, lão ấu, dân thường hay người có chức tước. Cám dỗ cũng đa dạng và có nhiều mức độ. Khi suy nghĩ về những cơn cám dỗ của cuộc đời, cụ Tú Xương đã phải “gãi đầu” mà thốt lên:

Một trà, một rượu, một đàn bà

Ba cái lăng nhăng nó quấy ta

Chừa được thứ nào hay thứ ấy

Có chăng chừa rượu với chừa trà

Can đảm chống lại cơn cám dỗ là điều khó thực hiện, và chừa được tật xấu nào đó cũng thật là nhiêu khê. Chẳng ai nói mạnh được. Chỉ trong tích tắc cũng đủ người ta phải ân hận cả đời. Và cũng vì thế mà chúng ta cần cảm thông, yêu thương và tha thứ cho nhau.

Về sản phẩm đầu mùa, sách Đệ Nhị Luật cho biết: “Tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh em và đem đặt trước bàn thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Bấy giờ, anh em sẽ lên tiếng thưa trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em rằng: Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi” (Ðnl 26:4-6). Lúc đó, họ đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ; và Ngài đã nghe tiếng kêu xin của họ, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức mà họ phải chịu. Vì thế, chính Đức Chúa đã đích thân dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng để đưa họ ra khỏi Ai-cập (Ðnl 26:7-8).

Không chỉ được Thiên Chúa cứu thoát, họ còn được Thiên Chúa ban cho những thứ ngoài sức tưởng tượng:: “Ngài đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con” (Ðnl 26:9-10). Đó là động thái của lòng biết ơn, một động thái rất cần thiết trong cuộc sống thường nhật, với cả Thiên Chúa và với tha nhân.

Tác giả Thánh vịnh mời gọi: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91:1-2). Thiên Chúa biết rõ mọi sự, ngay từ trong suy nghĩ, nhưng bổn phận chúng ta vẫn phải chân thành cầu nguyện. Nếu biết tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ có lợi nhiều: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Tv 91:10-12).

Không chỉ lợi ích về tinh thần mà còn lợi ích cả về thể lý: “Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 91:13). Đó là điều chắc chắn, vì chính Đức Chúa đã phán hứa: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên” (Tv 91:14-15). Thật là trên cả tuyệt vời!

Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin” (Rm 10:8). Lời Chúa được Giáo hội coi trọng như Thánh Thể, và cả hai đều đòi hỏi đức tin minh bạch và mạnh mẽ. Thánh nhân giải thích: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10:9-10). Như người Việt chúng ta cũng nói: “Có đầy mới tràn”, lòng có thế nào thì mới nói ra.

Kinh Thánh xác định: “Mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không phải thất vọng” (Rm 10:11). Vì thế, không có sự khác biệt giữa người này với người kia, dân tộc này hay dân tộc nọ, người lượm ve chai hay ông giám đốc, giáo sĩ hay giáo dân,… vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Ngài. Tắt một lời: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Rm 10:13). Đó là lời hứa tuyệt đối!

Thánh sử Luca kể: Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, theo nhân tính, Ngài cũng cảm thấy đói.

Vật chất là một trong những thứ cám dỗ mạnh nhất, đặc biệt là thực phẩm khi người ta đói ngấu. Chẳng vậy mà người ta có thể liều mạng mà cướp giật thực phẩm của người khác và ăn ngấu nghiến, danh dự lúc này cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Điều đó cũng cho thấy bản năng sinh tồn của con người rất mạnh.

Bấy giờ, quỷ nói với Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” (Lc 4:3). Nhưng Đức Giêsu “phang” ngay: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4:4).

Thua keo này, nó bày keo khác. Nó đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó “dụ” Ngài: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4:6-7). Nhưng Đức Giêsu nói thẳng: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (Lc 4:8).

Trong cuộc sống đời thường chúng ta cũng thường gặp những “bả” vinh hoa và lợi lộc, thế nên kẻ nào “yếu bóng vía” là dính líu vào vụ tham nhũng này, hối lộ kia, hoặc làm giấy tờ khống để lừa bịp và ăn chặn của người khác. Trong các đoàn thể cũng không phải không có “bả” này, vì thế mà người ta hay “lên mặt” vì có chức danh nào đó, vì thế mà người ta muốn “ra lệnh” hoặc muốn chứng tỏ mình là người “hét ra lửa”. Ngay trong các giáo phận, giáo xứ, chủng viện và tu viện cũng không loại trừ! Nói chung, ai cũng muốn mình phải là “số dzách” (số một, number one).

Chưa hết, sau 2 lần thua cuộc, quỷ lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi “khoe mẽ” và “nổ tung” tới chín tầng mây: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4:9-11). To gan thật! Nhãi ranh mà dám thách thức Thiên Chúa.

Và rồi Đức Giêsu nghiêm nghị đáp lại: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4:12). Thế là quỷ cũng đành “bó tay”, hết cách xoay xở hòng cám dỗ Ngài. Nó lủi thủi bỏ đi, nhưng “cay cú” lắm, nên nó vẫn rắp tâm mưu mô ranh mãnh là “chờ đợi thời cơ” (Lc 4:13).

Thế gian, xác thịt, và ma quỷ. Đó là ba kẻ đại thù. Không lúc nào hết những cơn cám dỗ trên đường lữ hành trần gian này. Cám dỗ như những con sóng ngoài biển khơi, không sóng lớn thì sóng nhỏ, không sóng cồn thì sóng ngầm, chứ biển chẳng bao giờ hết sóng, ngay cả những lúc chúng ta thấy biển có vẻ êm ả nhất. Vì thế mà luôn cần phải tỉnh thức và cầu nguyện: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14:38).

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn can đảm chống trả mọi chước cám dỗ bất kỳ lúc nào. Xin giúp chúng con luôn tỉnh thức và theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Lạy Sư Phụ Giêsu, Ngài đã chiến thắng tất cả để làm gương cho chúng con, xin giúp chúng con hiên ngang và vững bước theo Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.


Bài 8. CHÚA GIÊSU BỊ CÁM DỖ

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Mùa chay trong năm đức tin có một ý nghĩa thật sâu xa và độc đáo. Sâu xa bởi vì năm đức tin giúp các Kitô hữu tái khám phá lòng tin của mình, làm cho đức tin của mình sáng hơn, đẹp hơn. Độc đáo vì trong năm đức tin, mùa chay sẽ giúp người Kitô hữu hiểu về Chúa, về những lời của Người nói và những phép lạ Người làm. Hôn nay, nơi sa mạc hoang vắng Chúa Giêsu để ma quỉ cám dỗ…

Vâng, vì là con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi, Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ. Đây là một điều rất hợp lý khi Chúa Giêsu bị đặt trước thử thách phải chọn lựa! Chúa Giêsu được Thần khí Thiên Chúa thúc đẩy, thôi thúc, Ngài đã vào sa mạc để ăn chay, cầu nguyện và để ma quỉ cám dỗ. Thời Chúa Giêsu, từ Giêrusalem theo hướng mặt trời đi chừng nửa giờ đồng hồ là tới sa mạc Giuđa…Từ bờ sông Giorđăng đi bộ một vài phút là chúng ta đã tới sa mạc. Trong sa mạc, Chúa Giêsu bị đặt trước tình huống phải chọn lựa. Chúa Giêsu đã dùng phương thế nào để chiến thắng sự dữ, chiến thắng cái ác v.v…? Chúa Giêsu đã bị ma quỉ cám dỗ để Ngài chia sẻ với con người, cảm thông với con người. Tuy nhiên, khác với con người, Ngài đã chiến thắng cám dỗ để nêu gương cho con người, nêu gương cho mọi người.

Ma quỉ đã đánh đúng tâm lý của con người, chúng đã thừa cơ hội Chúa Giêsu ăn chay, do đó, chúng dùng cái đói để cám dỗ Ngài. Cái đói vẫn là một nhu cầu khẩn thiết của con người. Bởi vì, dân Do Thái khi xưa trong sa mạc về đất hứa, họ đã đói, đã khát, nên kêu trách Chúa… Nhưng Chúa đã ban cho họ được no thỏa ấm lòng khi ban cho họ manna và chim cút, nước từ tảng đá vọt ra v.v… Ngày nay, chúng ta vẫn đang bị cám dỗ về vật chất, tiền bạc…Cám dỗ này đang dày vò nhiều người và làm tiêu hao nhiều người. Tuy nhiên, nếu chúng ta không tỉnh thức, chúng ta dễ rơi vào mù quáng chỉ coi cơm bánh là chính yếu. Chúa đã nói “người ta sống chỉ nhờ cơm bánh mà con bởi lời Thiên Chúa phán ra” (Lc 4, 4). Cám dỗ thứ hai, ma quỉ dùng quyền hành, danh vọng để dụ dỗ Chúa Giêsu bởi vì trần gian này, ai mà chẳng thích danh vọng, uy quyền. Môsê lên núi nhận thập giới của Thiên Chúa, Dân Israen dưới núi, đợi lâm họ đã thờ ngẫu tượng bò vàng. Dân chúng luôn luôn bị cám dỗ lôi cuốn Chúa Giêsu trở thành một vị Vua chính trị đầy đủ quyền thế như mọi vị Vua thế trần. Tuy nhiên, Chúa đã nhất quyết khước từ mọi thứ vinh quang mau qua của trần gian để trở thành tôi tớ phục vụ mọi người. Cơn cám dỗ này vẫn thường xuyên xúi giục con người. Chúa đã thẳng thừng phán: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của Ngươi, và phải thờ phượng một mình Người” (Lc 4, 8). Cơn cám dỗ thứ ba là ma quỉ khích Chúa Giêsu để kiểm chứng lòng khiêm nhường của Người. Chúa đã không chiều theo chúng để tỏ vẻ huyênh hoang của mình. Ngài cũng bị cám dỗ thoát khỏi, trốn chạy cái chết vì cảm thấy Chúa Cha bỏ rơi mình. Tuy nhiên, Chúa đã không làm theo ý mình:không nhảy từ trên cao xuống hay không nhảy khỏi cây thập giá. Ngài đã hoàn toàn trung thành, vâng phục và làm theo ý Đức Chúa Cha.

Sa mạc là nơi cát bụi mênh mông, nắng khô cỏ cháy. Sa mạc là nơi bày ra trước mắt chúng ta muôn ngàn ảo ảnh của cuộc đời. Tuy nhiên, Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra đâu là ý nghĩa đích thực của đời người, đâu là ảo ảnh phù vân.

Chúa Giêsu đã đương đầu với những cám dỗ trong sa mạc, đã chiến đấu với những cơn cám dỗ ấy một cách anh hùng và làm gương cho chúng ta trong những cơn thử thách. Trên đỉnh núi Sinai, Thiên Chúa đã xuất hiện giữa ánh sáng chói lòa và lên tiếng. Ngài đã ký một giao ước đầy yêu thương với con người. Trong sa mạc mênh mông của miền Giuđa, Chúa đã dìm mình trong chay tịnh, cầu nguyện, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng ma quỉ, chiến thắng sự dữ để đem lại sự an bình và mối giao hảo bất khả phân ly giữa Ngài và con người.

Mùa chay là mùa sám hối, ăn năn. Mùa chay là mùa trở lại với Chúa bằng chay tịnh, cầu nguyện và bố thí. Do đó, Giáo Hội mời gọi chúng ta trong năm đức tin này là hãy trở về với Chúa, quay về với đức tin tinh tuyền ngày chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con Thần khí để Thần khí đưa chúng con vào sa mạc nội tâm sâu kín của tâm hồn chúng con để chúng con nhờ Thần khí Thiên Chúa mạnh mẽ, can đảm, dứt khoát cắt đứt tội lỗi và sống an bình. Amen.

Bài 9. Cám dỗ giúp chúng ta trưởng thành đức tin

Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi

Nói đến cám dỗ, chúng ta nghĩ ngay đó là mưu chước ma quỷ sử dụng để dụ chúng ta đi vào tội lỗi hoặc vào con đường đưa chúng ta lìa xa Thiên Chúa. Chúng ta cũng không thể không nghĩ đến Chúa Giê-su, gương mẫu chống trả cám dỗ, đã chiến thắng Xa-tan như thế nào. Nhưng thử hỏi có khi nào chúng ta coi cám dỗ như là một cơ hội nhắc nhở giúp chúng ta thăng tiến trong đời sống thiêng liêng hay không?

Trước hết chúng ta hãy xem mưu chước của Xa-tan khi nó cám dỗ Chúa. Những lời Xa-tan thách thức Chúa Giê-su luôn luôn có cùng một từ “nếu”. Những chữ nếu thật nguy hiểm này có khi nói lên sự thật, có khi lại là điều giả dối. Tuy nhiên sự thật hay giả được Xa-tan nói lên chỉ là để mở đường cho một hành động chống lại Thiên Chúa và thánh ý Người. Thí dụ, khi Xa-tan nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”, đó là một sự thật. Còn hành động “thì truyền hòn đá này hóa bánh đi” tuy cũng là một sự thật, nhưng nếu Chúa Giê-su nghe theo nó mà thực hiện hành động này là Người sẽ đi ngược lại mục đích quyền năng Thiên Chúa ban cho Người. Cũng thế, trong cám dỗ thứ ba, Xa-tan nói với Chúa Giê-su: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”, đó là sự thật. Nhưng đứng trên nóc Đền Thờ mà nhảy xuống thì lại là hành động “thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.

Cũng với từ “nếu” ấy, trong cám dỗ thứ hai, Xa-tan lại đề ra một hứa hẹn: “Nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Nó chỉ cho Chúa Giê-su thấy mọi vinh hoa, lợi lộc của tất cả các nước thiên hạ “đã được trao” cho nó và nó muốn cho ai tùy ý. Những gì Chúa Giê-su tận mắt nhìn thấy đều là có thật. Nhưng điều kiện để có được những cái có thật ấy lại là một hành động hoàn toàn phản bội Thiên Chúa: hành động bái lạy Xa-tan.

Chúng ta đã nhận biết mưu chước Xa-tan sử dụng để thuyết phục Chúa Giê-su làm điều ngược lại bổn phận của mình với Thiên Chúa. Nhưng cách Chúa Giê-su chiến thắng Xa-tan lại còn kỳ diệu và mạnh mẽ hơn cả đường đi nước bước của nó! Trước mỗi cám dỗ, Chúa Giê-su đã nhận định rõ ràng mục đích của hành động ma quỷ thách thức Người làm. Người tự hỏi: Tôi biến hòn đá thành bánh để làm gì? Hoặc: Tôi từ nóc Đền Thờ nhảy xuống để làm gì? Tất cả đâu phải để chứng minh tôi là Con Thiên Chúa! Mà chỉ là để tôi được nổi tiếng, được mọi người khâm phục mà thôi! Dựa vào Kinh Thánh, Chúa Giê-su đã xác tín được thánh ý Thiên Chúa và sứ mệnh Người trao. Cơm bánh chỉ là một phần của sự sống, ngoài ra còn lương thực thiêng liêng nữa, vì “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Gio-an 4:34). Cũng vậy, mục đích của việc bái lạy là để được Xa-tan ban cho tất cả thế gian này. Nhưng mục đích duy nhất của việc bái lạy là chỉ để “thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi”.

Sống sứ điệp Tin Mừng

Có khi nào chúng ta đặt câu hỏi tại sao Chúa để chúng ta trong môi trường đầy cám dỗ? Phải chăng Chúa không muốn chăm sóc lo lắng cho tôi? Không phải đâu. Nhưng đó là vì Chúa muốn chúng ta được lớn lên. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Cám dỗ cần thiết vì là dịp để chúng ta tập chiến đấu, tập tành nhân đức, nhất là lòng trung thành với Chúa. Chúa Giê-su đã nhận thấy sự cần thiết này nên Người cầu nguyện với Chúa Cha: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Gio-an 17:15).

Đặc biệt trong Năm Đức tin này, chúng ta để ý đến những cám dỗ liên hệ đến đức tin. Trong những cám dỗ Chúa Giê-su chịu, đức tin luôn luôn là đề tài Xa-tan tấn công Người dưới những chiều kích khác nhau. Nó cố thuyết phục Người thay thế niềm tin vào Thiên Chúa bằng niềm tin vào quyền lực, tiền tài và danh vọng. Nó xúi giục Người hãy hành động mọi sự theo ý riêng thay vì thi hành kế hoạch của Chúa Cha. Chúng ta có nhiều cám dỗ đức tin. Nhưng có lẽ cám dỗ đức tin thông thường nhất, đó là không tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện tốt nhất khi chúng ta bị cám dỗ là: “Con tin! Nhưng xin Chúa giúp lòng tin yếu kém của con!” (Mác-cô 9:24).

Bài 10. Người Chịu Cám Dỗ

Lm LG Đặng Quang Tiến

Ma quỷ không thể tách con người ra khỏi Thiên Chúa, nếu con người biết dùng Lời Chúa để chống lại mọi cơn cám dỗ của nó.

Đoạn 4:1-13 là trình thuật cuối cùng trong tiết đoạn 3:1-4:13, nói đến việc chuẩn bị cho sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngay sau đoạn nầy, Người bắt đầu rao giảng công khai. Bố cục của đoạn có thể phân chia như sau: – Bối cảnh của việc cám dỗ (4:1-2a); – 1/ Cám dỗ về bánh (4:2b-4); – 2/ Cám dỗ về quyền lực (4:5-8); – 3/ Cám dỗ về thử thách Thiên Chúa (4:8-12); – Kết luận. Ba cám dỗ không có tính cách riêng lẻ, mà liên hệ với nhau rất chặt chẽ xoay quanh bản thân Chúa Giêsu. Mỗi phần có kết cấu chung tương tự nhau: – Bối cảnh riêng của mỗi phần; – Ma quỷ đưa ra một lời đề nghị; – Chúa Giêsu lấy một câu kinh thánh để đáp lại.

Nơi Chúa Giêsu chịu cám dỗ là hoang địa. Hành trình của Người là từ các vùng của Giorđan đi vào trong hoang địa, ngược hướng với hành trình của Gioan Tẩy giả (3:2-3). Gioan vào đó để nghe tiếng Thiên Chúa; còn Chúa Giêsu, nghe tiếng ma quỷ cám dỗ. Người chịu cám dỗ do ý muốn của Chúa Cha, “được dẫn vào”, và trong liên đới với Thánh Thần, “đầy Thánh Thần” và “trong Thánh Thần” (4:1). Bốn mươi, có thể là bốn mươi năm hoặc bốn mươi ngày, là con số biểu tượng để chỉ một giai đoạn quyết định. Đối với dân Israel, đó là thời kỳ thử thách và trách phạt. Đối với Môsê, đó là thời kỳ gần gũi với Thiên Chúa để viết nên Mười Giới Răn (Xh 24:18; 34:28; Đnl 9:9.11.18; 10:10). Đối với Chúa Giêsu, đó là thời kỳ thử thách và vâng phục trước khi bắt đầu sứ vụ. Luca dùng chữ hoặc là “ma quỷ, diabolos” (Lc 4:2.3.6.13; 8:12) hoặc là “Satan” (Lc 10:18; 11:18; 13:16; 22:3.31). Hoạt động của ma quỷ chính yếu là cám dỗ: cám dỗ Chúa Giêsu (4:1-13) và các môn đệ của Người (8:13; 22:3.31.40.46). Dịp thuận tiện mà ma quỷ đến lại để cám dỗ Chúa Giêsu (4:13) chính là lúc Người ở trong vườn Giệtsêmani (22:28.40.46). Mục đích của cám dỗ là làm nên bất trung với Thiên Chúa.

Cám dỗ về bánh (4:2b-4). Bối cảnh là suốt bốn mươi ngày Chúa Giêsu không ăn gì cả, nên Người đói. “Con Thiên Chúa” đã được xác định trong biến cố phép rửa, “Con của Tôi” (3:22). Hậu cảnh của cám dỗ nầy là việc Thiên Chúa thử lòng dân Israel trong hoang địa. Người làm cho họ đói để xem lòng họ như thế nào. Họ đã hướng về Ai cập và khao khát bánh bên ấy mà bỏ quên Thiên Chúa (x. Xh 16:3). Tuy nhiên, sau đó Người đã nuôi họ bằng manna để cho họ biết là họ không phải lìa bỏ Thiên Chúa như thế để chỉ đi tìm kiếm bánh ăn. Người đã lo lắng cho tất cả và muốn họ trung tín giữ các giới răn của Người (x. Đnl 8:2-3). Chúa Giêsu không bị Thiên Chúa mà ma quỷ thử lòng. Nó muốn Người dùng quyền làm con của Thiên Chúa (4:3; 3:23) để tự cung cấp bánh ăn cách độc lập với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn Người vào hoang địa chịu thử thách, có nghĩa là Thiên Chúa cũng muốn Người chịu đói. Do đó, nếu dùng quyền làm Con Thiên Chúa để làm đá thành bánh mà ăn là làm điều nghịch với Thiên Chúa. Sau nầy Người sẽ dạy là đừng để lòng vào chuyện ăn uống (12:19), và phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa và chuyện của Người trước tiên (x. 12:31).

Cám dỗ về quyền lực (4:5-8). Bối cảnh là ma quỷ chỉ cho Chúa Giêsu thấy tất cả các vương quốc trên trần gian, và hứa ban cho vinh quang và quyền lực của các nước ấy nếu Người thờ lạy nó. “Trần gian” nầy không phải là vương quốc của Thiên Chúa, mà của con người (x. 2:1; 21:26). Và vinh quang cũng như quyền lực cũng thuộc về trần gian nầy, chứ không phải là của Thiên Chúa. Quyền năng của ma quỷ ở nơi những người bắt bớ Chúa Giêsu và các môn đệ (x. 12:11; 20:20; 23:7). “Bái lạy” là hành vi diễn tả sự lệ thuộc và tùng phục một người có quyền lực cao hơn. Có thể gọi những người ấy là “chúa” hoặc “ân nhân” (x. 22:25). Động từ nầy chỉ được dùng ba lần trong Luca: hai lần ở đây và một lần là các môn đệ bái lạy Người sau khi Người đã sống lại (24:52). Vinh quang và quyền năng của Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha: quyền năng (x. 4:32.36; 5:24;); vinh quang (9:26.31; 19:38; 21:27). Ở đây ma quỷ muốn trao quyền lực trần gian cho Chúa Giêsu với điều kiện; trong khi Chúa Giêsu sẽ ban cho các môn đệ của Người quyền năng trục xuất ma quỷ (9:1.19). So với Đnl 6:13 hay 10:20, trong câu kinh thánh được trích dẫn, chữ “kính sợ” được thay thế bằng chữ “bái lạy” và chữ “chỉ một mình” (thờ lạy Người) được thêm vào để làm mạnh nghĩa sự độc nhất của việc thờ phượng. Vì vinh quang và quyền năng của Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa, Người chỉ phục vụ và bái lạy một mình Người (x. 16:13). Vậy, Người không đổi Vị mà Người phải tôn thờ để nhận lấy vinh quang và quyền năng của trần gian.

Cám dỗ về thử thách Thiên Chúa (4:8-12). Bối cảnh là ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên Giêrusalem và đặt Người trên nóc đền thờ. Nó thách thức Người gieo mình xuống, vì với tư cách là Con Thiên Chúa sẽ có các thiên thần đỡ tay nâng. Một lần nữa ma quỷ nại đến danh nghĩa “Con Thiên Chúa” như trong cám dỗ lần thứ nhất. Điều ma quỷ quan tâm không phải là phép lạ có xảy ra hay không, mà là tương quan giữa Chúa Giêsu với Cha của Người. Trong cám dỗ lần thứ nhất, đứng trước một vấn đề đang cần thiết là bánh ăn khi đói, Chúa Giêsu đã không làm phép lạ. Phương chi trong lần nầy “gieo mình xuống từ nóc đền thờ” là làm một điều nguy hiểm không cần thiết, Chúa Giêsu càng không thể làm. Người xem đó là thách thức Thiên Chúa (4:12). Thách thức Thiên Chúa là đòi hỏi những bằng chứng phép lạ Người làm để có thể tin. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho ma quỷ là câu Thiên Chúa đã nói với dân Israel (Đnl 6:16), sau khi họ đã thử thách Người tại Massah; tiếng nầy có nghĩa là “thử thách” (x. Xh 17:1-14). Tại đó, dân chúng đã nổi loạn chống lại Thiên Chúa và Môsê. Họ không tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, vì họ không có nước uống tại Massah, mặc dù Người vẫn ở với họ và đã thực hiện những điều kỳ diệu cho họ (Đnl 6:15). Thách thức nầy sẽ lập lại cho Chúa Giêsu (x. 11:16.29-30; Mc 8:11) ngay cả khi Người đang bị treo trên thánh giá (23:35.37.39; Mk 15:36). Phần Chúa Giêsu, Người luôn tin tưởng vào Cha của Người, ngay cả khi phải chết tại Giêrusalem để thi hành ý muốn của Người (x. 23:46).

Ảnh hưởng của ma quỷ trên con người là không thể chối cãi. Tuy nhiên, nó không thể tách con người ra khỏi Thiên Chúa, nếu con người biết dùng Lời Chúa để chống lại mọi cơn cám dỗ của nó.

Bài 11. Cám dỗ

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.

Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu

Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.

Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị

Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.

Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ

Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.

Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.

Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.

Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.

Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.

Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.

Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn đã gặp nhiều cơn cám dỗ, bạn đã chống trả những cơn cám dỗ như thế nào?

2. Có những việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới biết là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỷ không?

3. Bạn có ý thức rằng ma quỷ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới ngày nay không?

4. Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỷ?


Chúa Nhật I Mùa Chay (C)
  • Blogger Comments
  • Facebook Comments
Top