Chúa Nhật II Mùa Chay (C): Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
23.02.2013
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY (NĂM C)
Các bài Suy Niệm và Chú Giải Tin Mừng
Lời Chúa: St 15,5-12.17-18; Pl 3,17–4,1; Lc 9,28b-36
----------------------
Tin Mừng: Lc 9,28b-36
Hôm ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Mô-sê, và một cái cho ông Ê-li-a”. Ông không biết mình đang nói gì. Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
1. Hai ngọn núi
Có một cuốn phim mang tựa đề “Mặt nạ”, kể lại một câu chuyện về chú bé 16 tuổi, tên là Rocky. Chú mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ khiến cho sọ và xương mặt chú phát triển khác thường, làm cho khuôn mặt chú bị biến dạng thật khủng khiếp. Nhiều người trông thấy chú, phải vội vã quay đi vì sợ hãi. Có kẻ lại chọc ghẹo, chế nhạo chú. Riêng chú thì chẳng bao giờ cảm thấy tủi thân, vì chú chấp nhận nó như một phần cuộc sống mình. Ngày nọ, chú và vài người bạn đi thăm khu công viên vui chơi. Họ vào một ngôi nhà được ráp kiếng và bật cười vì khuôn mặt họ bị những tấm gương làm cho biến dạng. Còn chú thì giật mình khi nhìn vào một tấm gương đã biến khuôn mặt méo mó của chú thành một khuôn mặt bình thường, nếu không muốn nói là rất đẹp trai. Lần đầu tiên trong đời, bè bạn chú đã nhìn thấy chú trong một trạng thái hoàn toàn mới mẻ. Họ đã nhìn thấy con người thực sự xinh đẹp bên trong của chú được bộc lộ ra bên ngoài.
Một điều tương tự như thế đã xảy ra cho Chúa Giêsu quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Trong lúc Ngài biến hình, các môn đệ đã nhìn thấy Ngài trong một trạng thái hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên họ được trông thấy sự vinh quang tươi đẹp bên trong của Con Thiên Chúa được bộc lộ ra bên ngoài. Điều này khiến chúng ta tự hỏi: Tại sao cuộc biến hình lại được xếp vào Mùa Chay là mùa vốn mang màu sắc ảm đạm?
Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải đọc lại toàn bộ bài Phúc Âm nói đến cuộc biến hình. Việc này xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu báo cho các môn đệ rằng Ngài phải lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết. Khi nghe Chúa nói thế, Phêrô liền la lớn: Lạy Thầy, xin đừng để điều đó xảy ra cho Thầy. Lập tức Chúa Giêsu trả lời cho Phêrô một cách gay gắt: Hỡi Satan, hãy xéo đi, đừng cản trở Ta. Ngươi không suy nghĩ theo đường lối Thiên Chúa mà chỉ theo đường lối của con người. Có lẽ Phêrô, Giacôbê và Gioan cần được chích một mũi thuốc bổ thiêng liêng sau khi bị cú sốc Chúa hướng các ông về cuộc tử nạn. Và đó cũng là lý do khiến Giáo Hội nói về cuộc biến hình vào Mùa Chay như một trợ lực cần thiết cho chúng ta trước khi bước vào tuần thánh.
Nếu để ý một chút chúng ta sẽ thấy được sự tương phản giữa cuộc biến hình và cơn hấp hối trong vườn Cây Dầu. Cả hai đều xảy ra trên những ngọn núi, trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân yêu. Và cả hai sẽ bổ túc cho nhau. Thực vậy, trên đỉnh Tabor ba môn đệ nhìn thấy Ngài xuất thần, và qua đó được chiêm ngắm thiên tính của Ngài. Còn trên núi Cây Dầu họ nhìn thấy Ngài hấp hối và qua đó nhân tính của Ngài được bộc lộ một cách rõ nét hơn cả.
Tabor và Cây Dầu mạc khải nét tương phản sinh động giữa nhân tính và thiên tính của Ngài. Hai biến cố này không thể tách lìa nhau như hai mặt của một đồng bạc, và như thế cho chúng ta thấy Ngài vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật.
Hãy chấp nhận thập giá cuộc đời để nhờ đó chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.
2. Từ Đức Kitô đến chúng ta
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu biến hình vinh quang trên đỉnh Taborê. Biến cố này làm cho tôi nhớ tới cơn hấp hối của Ngài trong vườn cây dầu. Cả hai đều xảy ra trên những ngọn núi dưới sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín. Một biến cố thì cho chúng ta chiêm ngưỡng thiên tính của Ngài. Còn một biến cố cho chúng ta thấy rõ nhân tính của Ngài. Tuy nhiên cả hai đều bổ túc cho nhau, để rồi chúng ta tin nhận Ngài vừa là người thật; lại vừa là Thiên Chúa thật.
Từ đó chúng ta rút ra một sứ điệp quan trọng, đó là giống như Đức Kitô, mỗi người chúng ta cũng có hai chiều kích, một thuộc về nhân tính, một thuộc về thiên tính. Mỗi người chúng ta đều mang trong mình một nét giống Adong và một nét giống Thiên Chúa.
Cũng như Đức Kitô trên đỉnh Tabor, chúng ta từng cảm nhận những giây phút xuất thần, khi mà nét giống Chúa được toả sáng khiến chúng ta cảm thấy Ngài thật là gần gũi dường như chúng ta có thể đụng chạm được. Trong những giây phút quý giá này, chúng ta ngạc nhiên thấy cuộc sống sao mà tươi hồng, sao mà đẹp đẽ thế. Chúng ta cảm thấy muốn yêu thương mọi người, muốn tha thứ tất cả.
Thế nhưng xét theo mặt khác, cũng như Đức Kitô trong vườn cây dầu, chúng ta từng cảm nghiệm được những giây phút hấp hối, khi mà đường nét giống Adong rực cháy trong chúng ta khiến cho đường nét của Chúa bị nhạt nhoà gần như mất hẳn.
Trong những giờ phút đen tối ấy, chúng ta cảm thấy cuộc sống thật tồi tệ làm sao. Chúng ta cảm thấy ai cũng khó thương, khiến chúng ta nghi ngờ bạn bè, gây gổ với người chung quanh và trả đũa đích đáng kẻ thù của chúng ta. Ngay cả đến sự hiện diện của Thiên Chúa chúng ta cũng muốn chối bỏ.
Thế nhưng, dù ở trong giờ phút hấp hối hay xuất thần, chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh hai ngọn núi Tabor và Cây Dầu. Chúng ta cũng hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm được cả hai khoảnh khắc vinh quang và thê thảm nhất trong cuộc đời Ngài. Và quan trọng hơn, đó là chúng ta cần phải nhớ rằng: Cả hai khoảnh khắc ấy Chúa Giêsu đều ở trong trạng thái cầu nguyện.
Nếu cầu nguyện là cách thức Ngài dùng để đáp lại những khoảnh khắc ấy, thì chúng ta cũng nên làm giống như Ngài, nhờ đó chúng ta cũng sẽ nghe được Thiên Chúa Cha nói với chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu trong lúc biến hình: Này là con Ta yêu dấu. Cũng như Đức Kitô từng chịu hấp hối trên núi câu dầu, chúng ta cũng sẽ cảm nhận được Thiên Chúa Cha đang chạm đôi tay của Ngài để chữa lành chúng ta.
3. Biến hình – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chang từ đỉnh núi Ta bo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng, ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiên, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên Giêrusalem để chịu khổ và chịu chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem chịu chết.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó?
2. Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
3. Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay?
4. Vinh quang của Đức Giêsu
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui…” Một bài hát của Trịnh Công Sơn đã bắt đầu như thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ba môn đệ của Đức Giêsu đã chẳng phải chọn một niềm vui. Niềm vui chợt đến với họ như một quà tặng.
Đêm hôm ấy, một đêm giống như nhiều đêm, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện cùng với ba môn đệ. Ngài chìm sâu trong cuộc đối thoại thân tình với Cha. Ngài biết khá rõ những gì đang chờ mình: khổ đau, nhục nhã, cái chết và phục sinh (x Lc 9,22). Đức Giêsu đón lấy con đường Cha muốn Ngài đi.
Đêm đã khuya, Ngài vẫn còn trò chuyện với Cha. Các môn đệ đã chìm sâu trong giấc ngủ. Khi chợt tỉnh, họ ngất ngây trước cảnh tượng phi thường. Thầy Giêsu đang đàm đạo với hai ông Môsê và Êlia. Vinh quang rạng ngời bao trùm ba đấng. Khuôn mặt Thầy Giêsu trở nên đổi khác. Cả y phục Ngài cũng trở nên trắng tinh chói lọi.
Không rõ các môn đệ đã chiêm ngưỡng cảnh này bao lâu, nhưng chắc chắn họ muốn kéo dài hạnh phúc đó. Khi ông Phêrô thấy hai vị sắp chia tay Đức Giêsu, ông đòi dựng ba lều để tất cả ở lại qua đêm.
Đêm đẹp quá, đêm huyền diệu! Đêm bừng sáng như ban ngày! Bỗng chốc một đám mây bao phủ các môn đệ, đưa họ đi vào huyền nhiệm của sự hiện diện thần linh. Họ khiếp sợ khi thấy Thiên Chúa quá ư gần gũi.
Tất cả những gì đã xảy ra đều nhằm chuẩn bị để các môn đệ nghe được lời giới thiệu của Cha:
“Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn”,
và đón nhận lời Cha nhắn nhủ: “Hãy vâng nghe lời Người”.
Kinh nghiệm thấy Đức Giêsu toả sáng thật cần thiết. Nó là một nâng đỡ cho các môn đệ đang cùng đi với Thầy trên đường lên Giêrusalem. Nó giúp các ông đón nhận số phận như Thầy, để được cùng Thầy chia sẻ vinh quang (x. Lc 9,23-26).
Vinh quang của Con Thiên Chúa được dấu ẩn khi làm người. Vinh quang ấy loé sáng lúc Ngài biến hình trên núi. Nhưng ngay sau Phục Sinh, Ngài cũng chẳng tỏ hết vinh quang.
Vinh quang tỏ tường chỉ bừng toả khi Ngài trở lại.
Đám mây rồi cũng tan, Môsê và Êlia biến đi. Chỉ còn mình Đức Giêsu ở lại, với khuôn mặt bình thường, với con đường phía trước.
Rồi hôm sau Thầy trò lại xuống núi ruổi rong.
Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa bừng sáng. Và chúng ta cũng cần được biến hình.
Sám hối đích thực, dẫn tới sự bừng sáng rực rỡ.
Bừng sáng qua cầu nguyện thâm trầm, qua chay tịnh lặng lẽ.
Bừng sáng qua chia sẻ với tha nhân.
Ước gì tôi bừng sáng qua việc biến đổi lối nghĩ, lối sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu nguyện, ăn chay, chia sẻ cho người nghèo: đó là 3 hướng chính của mùa Chay. Bạn thấy 3 hướng đó cần thiết không và bổ sung cho nhau như thế nào?
Nhiều đoàn phẫu thuật giúp trẻ em tìm lại nụ cười trên khuôn mặt tươi tắn. Bạn nghĩ mình có thể đem lại nụ cười cho ai trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
5. Khuôn mặt Ngài biến đổi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm của con người.
Ai cũng muốn mình có khuôn mặt dễ mến. Người ta bỏ ra nhiều tiền để sửa sang lại khuôn mặt, vì họ muốn người khác đổi cái nhìn về họ.
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi cao. Chỉ mình thánh Luca nói rõ chi tiết này: “Đang khi Ngài cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài biến đổi”.
Gần đèn thì sáng.
Gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi nội tâm con người, thậm chí làm biến đổi thân xác, biến đổi khuôn mặt, và cả những gì con người sử dụng cũng bừng toả: “y phục Ngài nên trắng ngời như chớp sáng”.
Trong mùa Chay, chúng ta muốn biến đổi cuộc sống mình, chúng ta muốn mang bộ mặt mới. Chúng ta đã làm nhiều điều, trừ một điều quan trọng, đó là lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa.
Núi cao ở ngay trong sâu thẳm lòng ta, nơi đây ta gặp gỡ Ngài, diện đối diện.
Mọi biến đổi nơi cá nhân cũng như tập thể, nơi gia đình, giáo xứ, dòng tu và cả Giáo Hội đều phải khởi đi từ việc tiếp xúc với Thiên Chúa.
Chúng ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày, lấy cớ mình bận làm những việc của Chúa.
Thế giới hôm nay đói những người cầu nguyện, và thừa ứ những người lăng xăng… Ba môn đệ thân tín cũng đâu có cầu nguyện. Họ ngủ li bì.
Sau này ở núi Cây Dầu, họ cũng say ngủ. Thế nên họ chẳng biến đổi gì.
Dù họ chợt tỉnh và thấy khuôn mặt ngời sáng của Chúa, điều đó chỉ đem lại cho họ chút hưng phấn chóng qua, nhưng không cho họ sức để trung thành theo Chúa.
Họ mơ ước dựng lều ở ngọn núi thánh này, vì họ thích ngắm khuôn mặt rực sáng của Đức Giêsu. Nhưng họ không có can đảm ở lại Núi Sọ, để chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy thương tích của Thầy.
“Các ngươi hãy nghe Ngài”: một lời nhắc nhở hiếm hoi của Chúa Cha dành cho ta.
Bạn có nghe thấy lời nào của Đức Giêsu vang vọng nơi lòng bạn trong mùa Chay không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Các môn đệ buồn ngủ khi cầu nguyện. Còn bạn, bạn gặp khó khăn nào khi cầu nguyện? Làm sao vượt qua được những khó khăn đó?
“Con người cầu nguyện có khả năng biến đổi thế giới”: Bạn có tin điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
6. Hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Rít Rítpphai Vô-đơn-Spring là một mục sư phục vụ một bệnh viện làng Bethel, ở miền Bắc Palestin. Ông là người đạo đức. Có một bận, y sĩ trưởng phòng giải phẫu cùng với vị phụ tá đến báo tin cho ông biết tình trạng thất vọng của một bệnh nhân, mà họ đã giải phẫn không lâu. Mục sư Vô-đơn-Spring hỏi:
- Bác sĩ đã cầu nguyện cho bệnh nhân được tai qua nạn khỏi chưa?
Vị y sĩ trưởng phòng giải phẫu và y tá mỉm cười kín đáo mà không trả lời. Mục sư Vô-đơn-Spring nhận ra điều đó và nói:
- Nghĩa là chưa. Thôi được rồi, tôi muốn bàn chuyện này với Chúa.
Vậy là trong một giờ liên tiếp, mục sư quỳ sụp xuống trong phòng, ông cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Sau đó đến phòng người bệnh trầm trọng ấy. Vừa thấy ông, cô y tá đã vội vàng nói:
- Đã từ nửa giờ bệnh nhân thấy đỡ hơn.
Vài tuần sau đó bênh nhân lành hẳn. Bác sĩ trưởng phòng giải phẫu đến gặp mục sư và nói:
- Thưa mục sư, tôi sẽ không bao giờ mỉm cười nghi ngờ nữa.
Thái độ của mục sư Vô-đơn-Spring hoàn toàn tin tưởng phó thác mọi sự cho Thiên Chúa quan phòng có thể giúp chúng ta hiểu được các sứ điệp Chúa nhật hôm nay.
Tin có nghĩa là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa và sẵn sàng nhắm mắt đưa chân bước vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm với Ngài. Đoạn 12-25 sách Khởi Nguyên kể lại cuộc đời của Abraham và cho chúng ta thấy một khúc rẽ mới trong lịch sử cứu độ. Sau khi loài người phạm tội chặn đứng tương quan tâm tình với Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình, Thiên Chúa lại tìm ra mối dây liên hệ mới qua việc tuyển chọn Abraham và khiến ông trở thành cha của một nhân loại mới. Các trình thuật này của tổ phụ Abraham bao gồm hai nguồn truyền thống văn chương khác nhau với cách diễn tả và quan niệm thần học riêng.
- Truyền thống Giavít: biên soạn ở vương quốc miền Nam, thế kỷ IX trước Tây lịch, trong đó Giavê là tên gọi của Thiên Chúa. Truyền thống này luôn coi Thiên Chúa là người đối thoại chân tình với tổ phụ Abraham và với loài người. Soạn giả Giavít dùng thuật hành văn nhân hình để miêu tả Thiên Chúa. Nghĩa là ông cho thấy Thiên Chúa có kiểu cách nói năng và hành xử y như một người. Ngài nói chuyện đối thoại, hoạch định chương trình, ngồi ăn uống với tổ phụ Abraham. Ngài chấp nhận sự tiếp đón của ông chân tình như một người bạn. Ngài sẵn sàng làm mọi sự cho Abraham, ban cho ông một người con ông hằng mong ước, một vùng đất làm gia nghiệp và một dân tộc. Ngài sẵn sàng làm cho ông trở thành danh tiếng, thành tổ phụ của một dòng dõi đông đúc. Sẽ đặt tên cho ông một tên mới, vừa diễn tả sự kiện ấy vừa nói lên sự liên hệ của ông với Ngài. Do đó khi đọc lại các văn bản Kinh Thánh, chúng ta cũng phải khám phá ra tình bạn hữu ấy của Thiên Chúa và mối dây liên hệ thân tình của Ngài đối với chúng ta.
- Truyền thống văn chương tại vương quốc miền Bắc vào thế kỷ thứ VIII trước Tây lịch gọi là Êlohít. Vì trong các văn bản này tác giả gọi Thiên Chúa là Êlohim. Truyền thống này nêu rõ lòng tin và sự sống lòng tin của tổ phụ Abraham hay cũng còn gọi là sự công chính của Abraham. Lòng tin là một thực tại giàu ánh sáng và tương lai, nhưng con người hay nghi ngờ như Ađam, hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã nghi ngờ. Abraham trái lại đã tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, tin vào các lời Ngài hứa và tương lai mà Thiên Chúa hoạch định ra cho ông, ngay khi mà ông chưa có được gì cả. Chính thái độ ký thác hoàn toàn này khiến Abraham thành mẫu gương và là cha của những người có lòng tin thuộc mọi thời đại. Aman từ đó phát sinh ra tiếng Amen mà chúng ta thường dùng để kết thúc một lời nguyện là động từ “tin” trong tiếng Do Thái, nhưng nó có nghĩa gốc là cậy dựa trên, dựa vào. Tin như thế có nghĩa là chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa và lời Thiên Chúa mà thôi.
16,5-12.17-18 sách Khởi Nguyên bao gồm cả hai truyền thống kể trên. Trình thuật kết thúc với nghi thức cổ xưa của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với tổ phụ Abraham. Hai bên ký kết các giao ước để giữa các thú vật được chặt đôi nhằm khẳng định, bên nào không thực hiện giao ước thì cũng sẽ chịu một số phận như vậy. Tin như tổ phụ Abraham nghĩa là tín thác bước đi theo chương trình Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Một chương trình bí nhiệm khác với những gì chúng ta tưởng nghĩ và mong ước. Tin có nghĩa là sẵn sàng ra khỏi môi trường sống đảm bảo, ra khỏi những thói quen, kiểu cách sống qui ước của loài người. Tin có nghĩa là đưa ra nắm chặt lấy bàn tay của Chúa để cho Ngài hướng dẫn và bước đi theo Ngài. Đó cũng là ý nghĩa của trình thuật Chúa Giêsu biến hình trên núi trong 9,28-36 của thánh Luca.
Đối với dân Do Thái, Môisê và Êlia là hai gương mặt diễn tả tất cả Kinh Thánh, diễn tả tất cả Lời Chúa mà tín hữu cần phải biết lắng nghe và đem ra thực hành mỗi ngày. Qua biến cố biến hình, Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Ngài hứa là Tin Mừng của Chúa Giêsu, mà còn biết thoát ly khỏi những gì ràng buộc ngăn cản chúng ta không cho bước vào cuộc sống thần thiêng sáng láng với Ngài nữa.
Qua biến cố biến hình, Chúa muốn cho ba môn đồ thân tín thấy rằng: sau con đường tiến về Giêrusalem dẫn Ngài tiến đến cái chết trên thập giá, là ánh sáng rạng ngời của cuộc sống. Trong Kinh Thánh hình ảnh cái lều diễn tả cuộc sống vô định nay đây mai đó của dân du mục. Do đó thái độ của Phêrô muốn dựng 3 lều ở trên núi Tabor mà không hiểu sâu hơn nữa có nghĩa là, Phêrô muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với con đường thập giá và khổ đau. Thái độ đó là kiểu cách thiếu lòng tin. Vì đó là một cách tránh né chương trình vào con đường của Thiên Chúa. Thái độ này bị thánh Phaolô gọi là cách hành xử đặc thù của những kẻ thù nghịch với thập giá Chúa Kitô.
Trong thư gởi giáo đoàn Philipphê 3,17-4,1 thánh nhân khuyến khích mọi người bắt chước ngài và theo gương các anh chị em có lòng tin vững mạnh, sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng của Chúa. Thánh Phaolô không tự cho mình là người hoàn thiện, vì Ngài cũng đang phải chiến đấu với thân xác yếu hèn của chính mình, với mọi đam mê và chước cám dỗ như tất cả mọi Kitô hữu khác. Cũng như mọi người, ngài đang chạy đua với hết sức lực mình để đạt đích. Thánh Phaolô cũng không khuyên nhủ tín hữu tôn thờ thần tượng một ai đó trong cộng đoàn. Bởi vì những người này cũng đang chạy đua và cố gắng như mọi người khác, chiến đấu với những thiếu sót bất toàn và tội lỗi của họ, và bởi vì vị thầy duy nhất đáng tôn thờ là chính Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là mẫu gương duy nhất cần phải theo và Tin Mừng của Ngài là kim chỉ nam duy nhất có thể đảm bảo cho con thuyền cuộc đời của người tín hữu đến bến bình an. Khi khuyến khích tín hữu cộng đoàn Philipphê bắt chước mình, thánh Phaolô mời cố gắng chạy, cố gắng chiến đấu như ngài, luôn hướng tấm lòng về tới đích cuộc đời là Thiên Chúa, là hạnh phúc mai sau. Đừng để các thú vui mau qua của đời này níu kéo mà khiến cho họ quên đi mục đích tối hậu của cuộc sống là ơn gọi Kitô.
Nói cách khác, thánh nhân nhắc nhở cho chúng ta biết rằng cuộc sống của chúng ta trên trần gian này là cuộc hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, là quê trời nơi Thiên Chúa đang chờ đón để ban cho chúng ta cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu. Do đó phải luôn biết ý thức và tỉnh thức, đừng để cho các thú vật chất hay bất cứ thứ gì trên đời này trói buộc và cầm chân chúng ta. Ngoài ra, thánh nhân cũng khuyến khích tín hữu cũng noi gương ngài không chạy theo các điều luật, các cấm đoán tỉ mỉ và các hình thức lễ nghi bề ngoài, mà chỉ lấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh làm chỉ huy duy nhất và làm bánh lái sống lòng tin mà thôi.
7. Vượt qua những thử thách khó khăn
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Chúng ta đang ở vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay thánh này với ngày Thứ Tư Lễ Tro. Điều gì chúng ta đã làm trong ngày Thứ Tư Lễ Tro này? Thưa rằng, chúng ta đã cho đại diện Giáo Hội xức tro lên trên đầu chúng ta, với dấu hiệu là chúng ta bởi đất, chúng ta sẽ trở về với đất.
Qua bài Phúc Âm Chúa nhật thứ I Mùa Chay tuần vừa qua, chúng ta lại đã nghe về cuộc hành trình của Chúa Giêsu trong sa mạc với những cám dỗ Ngài phải đương đầu. Những cám dỗ này chính là hình ảnh của những quyến rũ ma quỉ đặt trước chúng ta trong những ngày chay tịnh này, khi chúng ta sống trong bầu không khí của Mùa Chay. Việc biến hình của Chúa Giêsu với sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan; với Môisê và Êlia đại diện trong cùng bối cảnh của Mùa Chay. Từ đó chúng ta khám phá được một sự thật, Mùa Chay không phải là khoảng thời gian chúng ta phải đối đầu với những cám dỗ do ma quỉ sắp đặt đưa ra. Mùa Chay cũng không phải là khoảng thời gian người tín hữu phải tự buộc mình chịu đựng những sự đau khổ mà không tìm cách tránh né. Mùa Chay đầu tiên là một sự mạc khải về thân phận, về định mệnh, trong tiến trình tự nhiên của con người, và những kinh nghiệm phải có từ ý chí bề ngoài của cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm đó chúng ta có được về việc biến hình của Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm theo thánh Luca hôm nay.
Như thế này, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, Gioan lên núi cầu nguyện. Cứ theo cách diễn tả của thánh sử Luca, thì chúng ta có thể hiểu rằng biến cố đã xảy ra vào lúc ban đêm. Vì thường thường như chúng ta biết, sau khi giảng dạy và làm các phép lạ, Chúa Giêsu ẩn mình vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện vào ban tối. Và nhất là căn cứ vào thái độ của các môn đệ khi sự việc xảy ra đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Thời gian ban đêm trong bài Phúc Âm đồng hóa với bóng tối được diễn tả ở đây, có thể là biểu hiện cho khuynh hướng xấu, biểu hiện cho phần bóng tối trong tâm hồn của mỗi con người chúng ta. Nó cũng là một trong những điều mà Luca diễn tả, khiến cho quang cảnh dễ gây xúc động hơn.
Đang khi cầu nguyện, diện mạo của Chúa Giêsu biến đổi khác thường, chói lòa hào quang ánh sáng. Nhưng Ngài vẫn là Ngài. Ngài vẫn là Chúa Giêsu. Con của Thiên Chúa, có khác chăng là về diện mạo và quang cảnh chung quanh. Một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môisê và Êlia, đến nỗi khi được chiêm ngắm, các môn đệ đã phải thốt lên như trong một cơn mê sảng: “Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm. Chúng tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia”. Họ không muốn lìa xa nơi họ đã được chứng kiến. Một Thầy chí thánh với vinh quang và ân sủng, một vinh quang và ân sủng có thể hoà quyện trong mơ ước trần thế con người của họ trong những dịp đi theo Chúa.
Như chúng ta biết, Môisê và Êlia là hai tiên tri Cựu Ước, Môisê là người đã được Chúa tuyển chọn để đưa dân Ngài ra khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập. Êlia là tiên tri đã được kêu gọi để làm cố vấn cho giao ước, dân Do Thái đã gần như chối từ những ơn Chúa trong đời sống họ. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử khác thì nói rằng: Có một cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai vị tiên tri. Trong khi Luca còn đi xa hơn, diễn tả ngay cả nội dung của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu, Môisê và Êlia. Họ nói về sự chết của Chúa Giêsu sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Một cái chết không phải là dấu hiệu kết thúc của công trình cứu chuộc, nhưng là một cái chết khơi mào cho sự sống lại trong vinh quang trong nước Ngài. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, sự chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giêsu được thể hiện cùng một lúc trong biến cố biến hình này. Sự chết trong thân xác hay chết của nhân tính của Chúa Giêsu là một sự sửa soạn cho sự vinh quang vĩnh cửu của một đời sống khác trong thiên tính của Chúa Giêsu.
Chịu đựng là vượt qua những thử thách khó khăn. Không phải chúng ta luôn luôn đương đầu với mọi cám dỗ và hoạt động của ma quỉ. Nhưng trong chính thời gian này, sự vinh quang của Thiên Chúa vẫn còn thể hiện trong chính các sinh hoạt của chay tịnh, sự thống hối, ăn năn, tha thứ trong 40 ngày. Lời phán từ trong đám mây minh chứng rằng Đức Giêsu biến hình ngày hôm nay, chính là Chúa Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa. Ngài đã lãnh nhận và thánh hóa bí tích Rửa tội nơi sông Giođan với Gioan Tẩy Giả, Ngài là Con của Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa nói với nhân loại và nhân loại phải đón nhận Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Chúng ta cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình và cùng được dự phần vào việc đàm phán của Chúa với hai tiên tri. Từ đó, chúng ta có thể được dự phần vào việc khổ nạn và cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Đó là một cách thế chúng ta tham dự trong bất toàn nhân tính, trong con người của Chúa Giêsu và chúng ta cũng sẽ được tham dự vào thiên tính bất diệt của Con Chúa trong ngày tới.
Điểm cuối cùng của biến cố biến hình của Chúa ngày hôm nay không phải chỉ mạc khải cho chúng ta về chương trình hành động của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi con người. Biến cố này cho chúng ta thấy ngày lịch sử, nhân loại nhận biết sự xấu hổ của đời sống trần thế và ý nghĩa của sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu trong nhiệm vụ cứu rỗi. Biến cố này còn nhắc lại cho chúng ta một cách sống trọn vẹn và những hy sinh cay đắng trong cuộc sống. Chúng ta còn được dự phần trong sự vinh quang của Thiên Chúa là kết quả của việc chay tịnh, thống hối và tha thứ.
8. Chúa hiển dung – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong Phụng Vụ Chúa Nhật thứ hai mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Người bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế và ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau: “Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính tình nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi, hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người, có ông Môisen và ông Êlia xuất hiện để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.
Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình cùng ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã Phục Sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ mãi quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ nhạy bén trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.
Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm Lời Dâng như sau: “Anh không nghe thấy ư? Bước chân Người thầm lặng. Người tới, tới và luôn luôn thường tới. Người tới, tới và luôn luôn thường tới. Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi”.
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.
9. Nhìn vào mặt tốt – Lm Ignatiô Trần Ngà
Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu thương khó và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn. Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc cách bi đát như thế? Đã bao lần họ mơ tưởng một ngày nào đó được ngồi bên tả bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không thể chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách ngăn cản Ngài đừng chấp nhận con đường đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, tám ngày sau, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình lên núi cao để cầu nguyện. “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn “ông Phê-rô thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông… Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút vinh quang của Ngài ở đây, ít nữa là có môn đệ Gioan đã vững bước theo Chúa Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Cuộc đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm, mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi Tabor. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng… mà không thấy được mặt sáng của Ngài trên núi Tabor thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ngài đào tẩu hết, lấy ai làm chứng nhân cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của đời Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Ngài, tỏ cho họ thấy Ngài là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha, Người được Thiên Chúa Cha tuyển chọn” (câu 35) để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
* * *
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền của nó, người ta sẽ đánh giá thấp về nó, sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ nhìn mặt trái sần sùi và trơ trọi của tấm huy chương mà không nhìn mặt đẹp của nó, thì chẳng ai thèm nhận huy chương.
Hoa hồng rất đẹp rất kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến vẻ đẹp của bông hoa thì thật là đáng tiếc! Nhờ giá trị của những bông hoa hồng đẹp rực rỡ kiêu sa và hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu, không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ, nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm của họ, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó. Chúng ta đánh giá người đó chẳng ra gì.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy mặt sáng láng vinh hiển của Ngài trên núi cao để chuẩn bị tinh thần cho các ông đón nhận mặt đen tối của đời Ngài trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, cũng là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Một người dù có bị xem là xấu xa đến đâu chăng nữa cũng có những điểm sáng, những nết tốt tiềm ẩn bên trong. Ước gì chúng ta biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, nhìn vào ưu điểm của họ để dễ dàng thông cảm với những mặt trái, mặt xấu của họ. Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh ta dễ thương hơn, tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt đẹp hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
10. Thập giá vinh quang – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Có một nhà vua đã hỏi các quan đại thần rằng:
- “Trong chiến trận thì cái gì cần nhất?”.
Một đại thần trả lời:
- Tâu bệ hạ, cần nhất là lòng dũng cảm.
Nhà vua liền hỏi:
- Thế còn sức mạnh và vũ khí? Nhà ngươi quên à?
Vị quan nói:
- Tâu bệ hạ, nếu người lính đã không có tinh thần dũng cảm thì sức mạnh và vũ khí của anh ta cũng chẳng giúp được tí gì.
Thực vậy, lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn. Lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta không bỏ cuộc trước nghi nan. Giữa giòng đời chúng ta đang sống đâu mấy khi bình yên! Sóng gió luôn làm cho cuộc đời đong đầy những nghi nan. Người không có lòng dũng cảm sẽ khó có cơ hội vươn lên. Người không có lòng dũng cảm sẽ bất lực buông xuôi mặc cho giòng đời đẩy đưa.
Những khó khăn, những thử thách theo ky-tô giáo chính là những thập giá trong cuộc đời. Thập giá cuộc đời như bóng với hình hòa quyện vào trong cuộc sống chúng ta. Thập giá trong bổn phận phải thi hành. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những đam mê bất chính. Thập giá trong hy sinh để phục vụ anh em. Thập giá đôi khi đưa đến bất ngờ như những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc đời. Thập giá quá nặng, nhưng sức người lại yếu đuối. Đó chính là một cám dỗ khiến chúng ta đôi khi muốn trốn chạy thập giá hay giũ bỏ để tìm sự nhàn rỗi cho bản thân.
Có lẽ, chính trong hành trình đầy cam go của giòng đời này. Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Chúa Giêsu đã tỏ rõ dung nhan của một vì Thiên Chúa quyền năng. Ngài muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, cũng như chính nỗi hoang mang lo sợ của các môn đệ khi Ngài loan báo cái chết… Đau khổ làm cho con người sợ hãi, nhưng Chúa bảo “phải qua đau khổ mới tiến tới vinh quang”. Cái chết đó là nỗi sợ hãi tột cùng của con người. Nhưng Chúa bảo đừng sợ, vì sau ba ngày chôn cất trong mồ Ngài sẽ sống lại. Vì Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống. Nơi Ngài có sự sống đời đời. Trên núi Tabor, Chúa Giê-su cho ba môn đệ nếm trước sự sống thần linh vinh quang của Chúa để thêm sức cho các ông, nhờ đó mà vượt qua những thập giá gian truân. Chính nhờ ánh sáng trên núi Tabor, sẽ giúp cho các ông can đảm đón nhận từng đớn đau, thử thách trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan.
Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giê-su đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh. Chính Chúa vẫn đang chờ đợi để trao phần thưởng Nước Trời cho những ai trung tín theo Ngài.
Người ta kể rằng: Một hôm, có một bác nông dân có một chú lừa chẳng may bị lọt xuống một cái giếng cạn. Chú lừa tội nghiệp kêu la thảm thiết cả buổi mà bác chẳng biết làm cách nào đưa nó lên. Cuối cùng bác nông dân nghĩ rằng chú lừa đã già lắm rồi, thôi thì đành lấp giếng đi vậy. Hơn nữa, một con lừa cũng chẳng đáng bao nhiêu. Nghĩ thế bác liên gọi hàng xóm giúp bác một tay.
Tất cả mọi người hè nhau lấy xẻng xúc cát đổ xuống giếng. Lúc đầu, chú lừa hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình nên la hét khủng khiếp. Rồi bỗng dưng lừa ta im lặng khiến mọi người ngạc nhiên. Sau khi đổ đất được một hồi, bác nông dân nhìn xuống và kinh ngạc vô cùng trước những gì mình thấy: cứ một lớp đất đổ xuống lưng mình, nó giũ lớp cát xuống và giẫm chân lên. Khi mọi người tiếp tục đổ xuống đầu con vật, nó lại giũ lớp cát và giẫm chân lên một bước nữa. Cứ thế, cứ thế. Chẳng bao lâu con vật đã leo lên được thành giếng và bước ra ngoài trước sự sửng sốt của mọi người.
Cát bụi cuộc đời luôn đổ xuống trên chúng ta, như muốn nhậm chìm cuộc đời chúng ta. Nhưng vẫn còn có một cách để thoát khỏi chúng là giũ bỏ lớp cát và bước lên chúng mà đi. Bởi đâu ai muôn mình mãi là chú lừa mắc cạn mãi đâu! Cuộc sống luôn có thập giá nhưng Chúa bảo phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Đừng thất vọng than van trước khó khăn cuộc sống, nhưng hãy kiên nhẫn vượt qua. Đừng bi quan về những gì đang diễn ra chung quanh cuộc sống chúng ta, vì Chúa bảo sau đêm dài là ánh bình minh. Hãy can đảm đứng lên từ trong khó khăn vì phẫn thưởng chiến thắng đang chờ chúng ta phía trước. Hãy như con lừa biết trút bỏ mọi lo âu để tâm hồn được thảnh thơi, được nhẹ nhõm để bước theo Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận thập giá trong đời sống của mình với hai tiếng xin vâng. Xin cho chúng ta cùng đi với Chúa trong cuộc khổ nạn để mai sau cùng được chia sẻ vinh phúc vinh quang trên trời. Amen.
Nguồn "giaophanvinh.net"