2 Ảnh

29.12.12

Lễ Thánh Gia (C): Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa

Có bao nhiêu người cha Công Giáo đóng trọn vai trò trong gia đình như thánh Giuse đã từng làm đối với Chúa Giêsu? Có bao nhiêu người cha Công Giáo chủ toạ các buổi cầu nguyện trong gia đình? Có bao nhiêu người cha chúc lành cho con cái trước khi chúng đi ngủ? Có biết bao người cha hy sinh cho gia đình, cho con cái, nhưng họ chỉ là những bóng mờ trong gia đình. Trái lại, nơi nào người cha đóng trọn vai trò trong gia đình, thì quả thực niềm vui trong gia đình đó lớn lao chừng nào. Chúng ta có thể nói đó là bí quyết của Thánh Gia: tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa như người cha trong gia đình.


Tin Mừng Lc 2,41-52

Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa và người ta.


1. Gia đình nhân loại

Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại được cứu chuộc.

Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.

Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên Chúa và là anh em với nhau.

Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau. Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng. Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.

Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm ấy.


2. Con có bổn phận

(Trích trong ‘Manna’)

Suy niệm

Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng Xin Vâng ở Nadarét.

Nadarét là nơi Ngôi Lời làm người sống phần lớn thời gian. Mái ấm Nadarét thật khác thường, và rất đỗi bình thường. Đây là một gia đình có bầu khí yêu thương, đạo hạnh.

Nadarét là trường học đầu tiên huấn luyện Chúa Giêsu, chuẩn bị Ngài gánh vác sứ mạng Cha giao sau này. Nadarét là trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác.

Chúa Giêsu đã vâng phục kỷ luật của trường này. Ngài đã chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ, và Ngài đã lớn lên, chững chạc, trưởng thành, quân bình cả về thân xác, trí tuệ lẫn tâm linh.

Con Thiên Chúa đã tập làm người ở Nadarét, và nền giáo dục ở Nadarét đã thành công khi trao cho ta một Giêsu khôn ngoan, đạo đức và nhân hậu, ở tuổi ngoài 30.

Nền giáo dục gia đình được coi là tốt khi giúp con cái mở ra trước những đòi hỏi của Thiên Chúa và tha nhân.

“Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà CHA con sao?” – Từ năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã ý thức mình là Con của Thiên Chúa, Đấng mà cậu trìu mến gọi là Cha. Cậu đã sống mối tương quan thân tình độc đáo này và cậu cảm thấy điều đó kéo theo những bổn phận: ở lại trong nhà Cha hay lo việc của Cha.

Càng lúc Chúa Giêsu càng ý thức về mình, trong tương quan với Cha và trong sự thúc bách của sứ mạng.

Con Thiên Chúa cần mẹ cha, cần một mái ấm để lớn lên, nhưng cả mối dây thân thương tự nhiên ấy cũng có lúc phải chịu hy sinh, nếu nó cản trở sứ mạng Cha trao phó.

Ta không rõ tại sao cậu Giêsu rất mực khôn ngoan đã ở lại Đền Thờ mà không báo cho cha mẹ. Nhưng chắc chắn sau này cậu sẽ phải chia tay với Mẹ Maria.

Chúa Giêsu không chỉ là người con hiếu thảo với mẹ cha, nhưng trên hết và trước hết, Ngài là Con vâng phục CHA. CHA trên trời là ưu tiên vượt trên mọi ưu tiên khác.

Đức Maria không hiểu câu trả lời của Con mình. Dù Mẹ đã nghe bao mạc khải về Con từ Gabrien, Simêon, nhưng những biến cố đời thường vẫn làm Mẹ ngỡ ngàng.

Con vẫn là một mầu nhiệm vừa gần, vừa xa đối với Mẹ. Mẹ không hiểu nổi, không hiểu hết hay không hiểu ngay, nên Mẹ vẫn cung kính đứng trước mầu nhiệm bằng thái độ vâng phục của lòng tin và nghiền ngẫm mãi.

Mẹ chẳng giữ Con lại trong vòng tay của mình. Mẹ để Con lên đường, Mẹ dâng Con trên Núi Sọ.

Chỉ biến cố Phục Sinh mới làm Mẹ thật hiểu Con.

Cha mẹ vừa đùm bọc ấp ủ, vữa tiễn con mình vào đời.

Gia đình cung ứng những công dân tốt và tín hữu nhiệt thành.

Mỗi đứa con là một mầu nhiệm cần tôn trọng. Giáo dục là giúp con sống cuộc đời rất riêng của nó.

Ước gì mọi bà mẹ đều như Maria, sinh  các con như Giêsu.

Gợi Ý Chia Sẻ

Cuộc sống gia đình hôm nay gặp nhiều khó khăn (chung thủy, giáo dục con cái, thiếu thốn vật chất…) Theo bạn, đâu là khó khăn lớn nhất? Làm sao khắc phục?

Theo bạn, thế nào là một gia đình lý tưởng? Để xây dựng một gia đình như thế cần có những điều kiện gì?

Cầu Nguyện

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.

Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.

Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.



3. Con đường hạnh phúc – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Đức Giêsu phụ giúp thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.

Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.

Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.

Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.

Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Cácngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã cãi lời cha mẹ?

Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?

Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh , qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.

Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.

Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là giatrưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.

Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.

Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.

Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc Âm, hay là đi xem bói?

2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?

3. Qua tấm gương của Thánh Gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựng hạnh phúc gia đình trong năm mới?



4. Lễ Thánh Gia Thất

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Sau biến cố năm mười hai tuổi, Chúa Giêsu cùng cha mẹ lên Giêrusalem dự lễVượt Qua và Ngài tự ý ở lại ba ngày. Đức Giêsu đã trở về Nadaret, thực hiện đúng lời Em-ma-nu-en-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã được tiên tri loan báo. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy Thiên Chúa đang dự phần vào những công việc thân thiết quen thuộc nhất trong gia đình, đây là Thiên Chúa đang tự mặc lấy hình người, đang sống cuộc đời chúng ta. Sự thật là như vậy, và chúng ta có thể nói nhiều điều quý báu về Thiên Chúa.

1. Thiên Chúa đã bước vào một căn nhà tầm thường và gia đình tầm thường.

Ai cũng nghĩ rằng nếu Thiên Chúa đến thế gian, chắc Ngài phải đến với tư cách một nhà vua, đến sống trong cung điện nguy nga của bậc đế vương đầy thế lực, quyền quý, sang trọng. Nhưng ở Nadaret Chúa Giêsu đã sống như mọi người khác, nhà Ngài ở và cách Ngài ăn mặc cũng giống như người đương thời (Lc 8,44), Ngài ăn uống như người đồng hương (mt 9,19). Ngài dùng tiếng nói nơi Ngài ở, trong Phúc Âm, không ai tìm được một danh từ chuyên môn nào, Ngài trình bày những mầu nhiệm tôn giáo cao siêu bằng những từ ngữ thông thường của nơi Ngài sống, Ngài dùng cách diễn tả tư tưởng cùa người đồng thời và lối văn họ quen dùng. Ngài biết những bận tâm, những nhu cầu của họ và không ngạc nhiên khi nghe họ nói: “Chúng ta sẽ ăn gì? Chúng ta sẽ mặc gì?” Ngài dùng những thành ngữ của họ, dầu có nhiều khuyết điểm và thiếu văn hoa. Tỷ như để định vị trí cho một người không những không nghe theo những lời khuyên nhủ kín đáo nhưng cả những cảnh cáo của Giáo Hội, Ngài dùng diễn ngữ này: “Ngươi hãy coi nó như một dân ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18,17). Trong mọi sự Chúa Giêsu không có gì tỏ ra xa lạ với những người đến để được cứu rỗi. Ngài thật sự ở giữa chúng ta, chung sống với chúng ta, nên giống chúng ta hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thánh hoá một lần đủ cả việc con người được sinh ra, thánh hoá mái gia đình khiêm nhượng của giới bình dân và thánh hoá toàn thể tuổi ấu thơ.

2. Thiên Chúa đã bằng lòng làm công việc của loài người mà không xấu hổ.

Suốt ba mươi năm trường, Ngài đã không làm một điều gì ngoại thường, Ngài âm thầm sống như một người dân thường, học nghề nơi cha nuôi và tự tay làm việc nuôi sống bản thân và gia đình. Ngài hoàn toàn giống mọi người dân làng đến nỗi họ ngạc nhiên khi Ngài bắt đầu giảng dạy: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Gioxep, Simon và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13,54-56). Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đã đến thế gian như một công nhân. Chẳng bao giờ chúng ta nhận thức đầy đủ sự kiện Thiên Chúa thấu hiểu công việc hằng ngày của chúng ta tới mức độ nào. Ngài biết nỗi khó nhọc để kiếm đủ sống của chúng ta; Ngài biết nỗi khó khăn khi gặp khách hàng khó tính hay khách hàng không chịu trả tiền. Ngài biết tất cả những khó khăn trong cuộc sống chung trong một gia đình, và Ngài biết từng vấn đề chúng ta thường gặp hằng ngày. Theo Cựu Ước, lời rủa sả sau khi loài người phạm tội trong vườn Địa đàng: “Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có đủ mà ăn” (St 3,19), nhưng theo Tân Ước, sự làm việc thông thường được khoác lên một ánh hào quang khi có bàn tay Thiên Chúa chạm vào.

3. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy một Thiên Chúa yêu thương.

Lúc tình yêu thương bước vào đời sống thì đau đớn cũng vào theo, nếu chúng ta có thể sống hoàn toàn tách biệt mọi người, có thể thu xếp cuộc đời thế nào cho mình dửng dưng được với hết mọi sự, mọi người, thì cũng sẽ không còn đau đớn, buồn khổ, lo lắng. Nhưng trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa đang hết sức chăm sóc cho loài người và tha thiết với loài người. Ngài cảm thấy đau đớn cho loài người và với loài người. Thật ra, chính tình yêu là khởi điểm của sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi chúng ta. Chính vì Ngài yêu chúng ta nên Chúa Cha ban Ngài cho chúng ta. Thật vậy, như lời thánh Gioan: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Và cùng chính vì tình yêu mà Chúa Giêsu đã xả diệt thân mình “trở nên hoàn toàn giống anh em Ngài” vì Ngài “không lấy làm xấu hổ gọi chúng ta là anh em Ngài” (Dt 2,17.11). Tình yêu đòi phải nên giồng. Vì Ngài quá yêu anh em của Ngài sống trong thế gian nên có thể nói dĩ nhiên Ngài đẩy mạnh đến cùng mức độ nên giống họ (Ga 13,13). Cécil Northcott trong quyển “Chúa hiển hiện đời nay” thuật lại một cuộc thảo luận trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại diện nhiều quốc gia trên thế giới: “Một đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về nhiều phương cách khác nhau làm sao nói cho người khác biết về Chúa Giêsu. Họ hỏi một nữ trại sinh Phi châu: “Maria, ở nước cô thì cô làm thế nào?” Maria trả lời: “Chúng tôi không có hội truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về đạo. Chúng tôi chỉ sai một hoặc hai gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong làng. Khi dân làng thấy cuộc sống Kitô như thế nào, họ đều muốn trở thành Kitô hữu”.

4. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sống trong trắng và thánh thiện giữa loài người.

Nếu sau này Ngài có thể quả quyết: “Ai thấy Ta là thấy Cha” thì trong thời gian sống tại Nadaret, Ngài cũng vẫn luôn mang đặc tính ấy mặc dầu nhiều người không nhận ra. Ngài quả thật có nên giống chúng ta trong mọi sự, nhưng không trong tội lỗi. Không những suốt đời Ngài không hề có một khuyết điểm nào, nhưng qua cuộc sống, Ngài đã biểu lộ thiên tính. Không bao giờ Ngài thông đồn, dù bằng lời nói hay bằng việc làm, bằng cử chỉ với những tội lỗi nơi người đồng hương, vì Ngài thấy ở đó khởi đầu để đồng bào Ngài ghét Ngài.



5. Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi ngày

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Trên bình diện thuần tuý nhân loại, đây là một lối giới thiệu kỳ lạ. Đấng là khuôn mẫu đời sống của mọi Kitô hữu trọn lành, được mô tả trong hoạt cảnh bỏ nhà ra đi! Nói đúng ra, thánh sử mời gọi chúng ta hãy vượt qua cái bề ngoài, chỉ nên chú ý tới nội dung câu chuyện. Trước hết chẳng có gì là bi thảm, chúng ta để sang một bên nỗi lo âu nhất thời của hai ông bà. Sau đó, chúng ta học được ba thái độ đạo đức căn bản:

1) Thiên Chúa không cho chúng ta biết trước tình tiết cuộc đời chúng ta sẽ như thế nào. Đức Maria và thánh Giuse biết rõ con trẻ Giêsu là AI. Tuy nhiên, hai ông bà không hiểu biết theo lối chúng ta hiểu biết ngày nay nhờ thần học và giáo lý. Mỗi ngày một chút, hai ông bà phát hiện thêm sự thật của mầu nhiệm bao phủ cuộc đời mình và tầm mức bao la của số mệnh Chúa. Đối với Đức Maria và thánh  Giuse, mỗi giai đoạn tăng trưởng của Chúa, là một khám phá, luôn luôn đòi hỏi hai ông bà phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa, mỗi ngày phải đáp ứng bằng một tiếng vâng. Ngày này qua ngày khác, hai ông bà lúc nào cũng phải hành động, quyết định, suy xét và nhiều phen chẳng hiểu tại sao, luôn luôn phải thích ứng với những đoạn đường Chúa thúc đẩy phải tiến tới. Chúng ta chẳng khác gì Đức Maria và thánh Giuse. Sau khi thưa vâng với Thiên Chúa để chấp nhận số mệnh mình, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi hãy suy xét và hành động ngày này qua ngày khác, để mỗi ngày lại thưa vâng với Người. Trước hết Thiên Chúa đòi chúng ta gia nhập toàn diện vào số mệnh Người đề nghị. Sau đó, Thiên Chúa đòi chúng ta một sự gia nhập có tính cách chi tiết hơn và đặt giá cho sự gia nhập từng ngày trên đuờng định mệnh mình.

2) Công việc của Thiên Chúa phải đặt trước mọi sự, chúng ta phải hiểu như vậy khi đọc lên câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?”. Câu đáp đối với chúng ta có đôi chút sỗ sàng. Chúng ta cần giữ lại điều này: Thiên Chúa đáng chúng ta dành cho Người một sự ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa là trên hết và trước hết trong đời ta, điều đó có nghĩa là không được suy tôn bản ngã của chúng ta lên bằng Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta có được hạnh phúc là nhờ ơn Thiên Chúa chứ không nhờ khả năng của ‘cái ta’.

3) Chúng ta phải tìm Chúa Giêsu ở nơi chốn Người đang ngự. Sự giải thích cổ xưa nhất về lời đáp của Chúa Giêsu làm nổi rõ sự việc Người ở trong đền thờ, trong nhà Cha Người, là điều tất nhiên, và muốn tìm Người thì phải đến đền thờ mà gặp Người. Khi nào chúng ta có ấn tượng đã mất Chúa, tất nhiên chúng ta hãy đến thánh đường cầu nguyện dưới chân nhà tạm, nếu có thể được.


6. Tìm thấy – Flor McCarthy

SUY NIỆM 1

Chúa Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời gian mà Người phải thực hiện những quy định của lề luật. Như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đưa Người lên Giêrusalem, để cử hành lễ Vượt Qua. Các bậc cha mẹ có nhiệm vụ từng bước một đưa con trẻ hội nhập vào cộng đồng rộng lớn hơn, và dạy dỗ cho con trẻ những truyền thống của cộng đồng. Những đứa trẻ cũng cần phải được chỉ dạy con đường đi tới giếng nước thiêng liêng ; nếu không, chúng sẽ luôn luôn bị khát nước. Nhưng khi Đức Maria và thánh Giuse thực hiện cuộc hành trình trở về, thì Chúa Giêsu vẫn còn ở lại, và mãi cho đến hết ngày đầu tiên, các ngài mới phát hiện ra rằng Người bị thất lạc. Đó không phải là một chuyện đùa – một đứa trẻ còn nhỏ, đã bị thất lạc trong một thành phố rộng lớn. Tuy nhiên, không ai đáng trách cả. Đây chỉ là do hiểu lầm mà thôi. Sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất.

Các ngài bắt đầu lo lắng tìm kiếm Người. Khi không tìm được Người trong số những khách hàng quen biết, các ngài liền quay trở lại thành phố để tiếp tục tìm kiếm Người. Các ngài không thể hiểu nổi tại sao Người lại gây ra cho mình nỗi lo lắng đến thế. Nhưng khi một đứa con gây ra cho bạn nỗi lo lắng, thì nó vẫn là con của bạn, và bạn vẫn là cha mẹ của nó. Thật dễ dàng yêu thương con cái khi chúng còn nhỏ dại, khi tất cả những điều mà chúng cần đến là sự quan tâm chăm sóc và những nụ cười. Nhưng không dễ dàng yêu thương con cái, khi chúng bắt đầu khẳng định ý riêng của chúng.

Khi một đứa trẻ hay quanh quẩn bên cha mẹ nó, thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều có có nghĩa là đứa trẻ này được an toàn. Có khi một đứa trẻ tin tưởng chắc chắn vào tình yêu thương của cha mẹ, nó có thể quên mất cha mẹ, và đi ra ngoài để khám phá thế giới. Đây là trường hợp của Chúa Giêsu. Người không thực sự bị thất lạc, mà đang có một cuộc mạo hiểm. Người đang nhận biết mình ở đâu. Người đang ở trong nhà của Thiên Chúa.

Cuối cùng, khi tìm thấy Chúa Giêsu, câu hỏi đầu tiên của Đức Maria và thánh Giuse rất dễ hiểu: “Con ơi, sao con lại cư xử với cha mẹ như vậy ?”. Và Người trả lời “Cha mẹ không biết rằng con có bổn phận phải ở nhà của Cha con sao ?”. Mặc dù không hiểu được lời giải thích của Chúa Giêsu, nhưng các ngài vẫn không trách mắng Người. Khi làm như vậy, các ngài có thể tước đoạt của Ngài những thành quả của những cảm nghiệm tuyệt vời. Đôi khi, các bậc cha mẹ không biết được cách làm thế nào để khích lệ con cái, ngay cả khi họ chú ý đến những điều đáng giá. Nhưng Đức Maria ghi nhớ những lời nói của Chúa Giêsu, và suy niệm trong lòng. Lắng nghe là một phần rất quan trọng của vai trò làm cha mẹ. Chúng ta phải lắng nghe những lời con cái nói. Trái ngược lại với cách tìm kiếm những nguyên nhân để kết án, lắng nghe có nghĩa là tìm kiếm những lý do thực sự, phía sau những vấn đề. Mặc dù sự kiện xảy ra là một điều gây đau lòng, thì sự kiện đó vẫn có thể mang lại hiệu quả là đưa người ta đến với nhau hơn. Chúa Giêsu đánh giá được sự quan tâm mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho mình nhiều đến như thế nào, nên Người đã vui vẻ vâng phục các ngài. Đức Maria và thánh Giuse đã nhận ra rằng Chúa Giêsu là một đứa trẻ thật đặc biệt. Các ngài bắt đầu dành cho Người cơ hội để phát triển, mặc dù điều này có nghĩa là Người đang bắt đầu xa rời khỏi các ngài.

Bài học mà Đức Maria và thánh Giuse học được, chính là bài học mà tất cả các bậc cha mẹ cần phải bắt chước. Mỗi ngày qua đi, con cái chúng ta dần dần bớt thuộc về chúng ta, và trở nên con người của chúng nhiều hơn. Ngày sinh con cái trên đời chính là ngày mà cha mẹ bắt đầu đi vào cuộc chia tay lớn lao với chúng. Khi đã mang sự sống đến cho con cái, các bậc cha mẹ không được lấy lại cuộc sống đó. Nếu họ muốn có quyền sở hữu đối với con cái, thì họ sẽ không bao giờ biết được tình yêu thực sự của con cái họ.

Khi chúng ta nói rằng đứa trẻ nào là một đứa con “ngoan”, hiếm khi chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó nhạy cảm về mặt luân lý hoặc một cách phong phú. Nhưng chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó dễ bảo và biết vâng lời. Nhưng sự vâng lời không phải là một đức tính cao đẹp nhất.

Chúa Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người bắt đầu tìm thấy chính mình tại nơi đó, và phát hiện được căn tính đích thực của mình với tư cách là Con Thiên Chúa. Về phương diện này, gia đình Kitô hữu có thể giúp chúng ta rất nhiều.

Suy Niệm 2:

Cuối bài Tin Mừng hôm nay, có một câu nói rất gây ấn tượng. Đó là “Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Và sau cuộc thăm viếng của các mục đồng tại máng cỏ, chúng ta nhận thấy cũng có một câu tương tự như vậy. Thánh Luca nói rằng “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đức Maria ghi nhớ những sự kiện này trong tâm hồn của Mẹ, với quan niệm là để nhận thức được ý nghĩa ẩn giấu phía sau những sự kiện tuyệt vời đó.

Rõ ràng Đức Maria đã không ngay tức khắc thấu hiểu được ý nghĩa của những gì xảy ra với mình, và điều mà Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi mình. Nhưng những sự kiện luôn luôn diễn ra theo cách thế đó. Những kinh nghiệm sâu xa lúc nào cũng bắt đầu bằng sự phức tạp. Vào một lúc nào đó, chúng ta không bao giờ nhận biết được điều gì đang xảy ra cho chúng ta. Chỉ sau đó, có lẽ rất lâu, đôi mắt của chúng ta mới mở ra, và chúng ta bắt đầu hiểu được. Do đó, điều qaun trọng là phải biết suy niệm.

Hơn một lần, chúng ta đọc được trong các bài đọc. Tin Mừng kể rằng Đức Maria đã từng bối rối. Lúc đó, Mẹ làm gì ? Mẹ ngẫm nghĩ, suy niệm và cầu nguyện, tìm cách hiểu được điều gì đang xảy ra cho bản thân Mẹ và cho con Mẹ. Cách ngẫm nghĩ này không tránh khỏi sự bất an và lo lắng.

Đức Maria là một con người âm thầm, hay suy nghĩ. Trong suốt cuộc đời của mình, Mẹ luôn suy nghĩ và cầu nguyện về cách thức Thiên Chúa đối xử với mình. Khi không hiểu được điều gì, thì Mẹ ngẫm nghĩ trong tâm hồn, cho đến khi thấu hiểu được mục đích của Thiên Chúa qua những sự kiện đó. Bằng cách này, Mẹ đã đạt được sự thấu hiểu và khôn ngoan.

Emerson nói: “Cuộc sống ở phía sau chúng ta, giống như một cái mộ đá, mà từ đó, chúng ta khai thác đá và gạch ngói, dành cho người thợ nề ngày nay”. Chỉ bằng cách  suy niệm, chúng ta mới thấu hiểu được những sự kiện diễn ra. Chúng ta có thể có được những sự kiện, nhưng thiếu mất ý nghĩa của những sự kiện đó, bởi vì chúng ta không biết suy niệm nghĩ về chúng. Nhưng bằng cách suy niệm, thì chúng ta có thể rút ra được những hiểu biết quí giá từ các sự kiện đó.

Khi muốn nhớ lại những sự kiện thú vị, đó là một điều thật dễ dàng. Nhưng không hề dễ dàng chút nào, khi nhớ đến những sự kiện đau lòng. Chúng ta có khuynh hướng hay đè nén những ký ức đau thương. Ngay cả khi làm như vậy, chúng vẫn có thể ảnh hưởng trên chúng ta. Chúng ta có thể nhỏ một giọt chất độc vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta cũng cần phải nhớ lại những sự kiện đau lòng nhưng cách thức chúng ta nhớ lại những sự kiện đó mới là vấn đề. Chúng ta có thể cung cấp những chất liệu sống để rồi từ đó, chúng ta hiểu biết được lòng thương xót và sự khôn ngoan. Sự kiện Chúa Giêsu bị thất lạc ở Giêrusalem là một sự kiện đau lòng đối với Đức Maria. Tuy nhiên, Mẹ ghi nhớ sự kiện đó trong tâm hồn, và bằng cách làm như vậy, Mẹ đã học hỏi được từ sự kiện đó.

Thật đáng buồn, có những người dường như không hề học hỏi được gì từ các sự kiện xảy ra. Nhưng đối với những người khác, thì sự kiện là một trường học đích thực. Không ai có thể trở thành con người khôn ngoan, nếu chỉ trong một ngày, hoặc thậm chí trong một năm. Khôn ngoan là thành quả của sự suy nghĩ lâu dài.

Các bậc cha mẹ cần có rất nhiều sự khôn ngoan. Những điều mà Đức Maria học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng mà thánh Luca kể cho chúng ta rằng “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”. Chúa Giêsu đã được dạy dỗ, nuôi dưỡng và đào tạo do một người phụ nữ khôn ngoan, kính yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim và linh hồn.

MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC

Có một câu nói “Một bà mẹ có thể nuôi được mười đứa con, nhưng mười đứa con không thể nuôi được một bà mẹ”. Tất nhiên, không phải lúc nào cũng đơn giản là thế, như câu chuyện minh hoạ dưới đây.

Ngày xưa, một con chim mẹ có một con chim non mới ra ràng, mà nó rất mực yêu thương. Thế rồi đến thời kỳ di trú. Biết rằng con chim non còn quá bé nhỏ, không thể bay đi xa được, nên chim mẹ cõng chim non trên lưng.

Và thế là hai mẹ con nhà chim bắt đầu cuộc hành trình bay về phía nam. Ban đầu, chuyến bay tương đối dễ dàng. Nhưng thời gian trôi qua, con chim non trở nên nặng hơn, và chim mẹ bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục bay. Ngày kia, trong khi cả hai mẹ con đang nghỉ ngơi, chim mẹ quay sang chim con và nói “Con của mẹ, con hãy nói sự thật cho mẹ nghe, khi mẹ già rồi, thì mẹ sẽ không đủ sức mạnh để bay xuyên qua đại dương xuôi về phía nam, thế con sẽ cõng mẹ trên lưng và bay chứ?”.

Con chim con đáp “Mẹ ơi, con không thể hứa gì với mẹ về điều đó”.

Chim mẹ hỏi “Mà tại sao lại không được?”

“Bởi vì có thể chính con cũng bận rộn, vì phải cõng những đứa con của con trên lưng, giống như mẹ đang làm cho con bây giờ vậy”.

Trong khi đòi hỏi của bà mẹ là không thể nào hiểu được, là hơi ích kỷ, thì người ta vẫn phải làm điều mà mình có thể làm được, để chăm sóc cha mẹ già. Bổn phận đầu tiên và thánh thiện nhất của chúng ta, là cư xử tử tế đối với người họ hàng của mình. Nhưng có lẽ chăm sóc chính những đứa con của mình lại là cách thức tốt nhất, để đền đáp công ơn cha mẹ đã săn sóc chúng ta.


7. Lễ Thánh Gia Thất

(Trích trong ‘ Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có kể lại một câu chuyện sau đây:

Có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận giông bão to lớn chưa từng thấy, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.

Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng trong thế giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và phá thai, và những gia đình chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế độ vô nhân. Những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn, eo hẹp hay vì nạn cờ bạc rượu chè, ma túy, thuốc sái và ham mê buông thả trong lạc thú. Vì thế, những người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc khủng hoảng này là con cái, là trẻ em và giới trẻ.

Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong các gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các tế bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy?

Qua ngày lễThánh Gia, Mẹ Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình Nazareth xưa, gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse.

Chương ba sách Đức Huấn Ca là một bài quảng diễn điều răn thứ Tư của Mười Giới Luật, dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Ngoài những lý do luân lý tự nhiên như câu ca dao Việt Nam nêu lên:

“Công cha như núi thái sơn,

nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ kính mẹ cha,

cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Tác giả sách Đức Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo nữa. Đó là thái độ sống hiếu với cha mẹ, với những người đã dày công mang nặng đẻ đau, sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.

Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình cho thấy người sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Đức Huấn Ca, biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm siêu việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện diện ngay trong cái tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã đến sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn vui, mọi âu lo khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng đôi mắt của lòng tin thì mọi sự trong thế giới hữu hình này đều được biến đổi và nói lên được sứ điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiên linh của Thiên Chúa.

Sự thật này được nêu bật trong Thánh Vịnh 28. Đây là bí quyết tạo hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc cũng là điều rất thiếu sót trong các gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia đình có thể hài hòa hạnh phúc nếu mỗi người chỉ ích kỷ, sống và tìm hưởng thụ cho riêng mình mà không muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng hiến, trao ban và lo lắng cho những người khác. Tình yêu đích thực bao giờ cũng đơm hoa kết trái, và gia đình chỉ là gia đình khi cha mẹ, con cái xum vầy bên nhau.

Một tình yêu không sinh hoa trái là một thứ tình yêu cằn cỗi, què quặt, bất bình thường. Một gia đình không có con cái là một gia đình buồn tẻ và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý muốn, gia đình có thể thiếu vắng thành phần này hay thành phần khác, nhưng tình yêu là nhân tố nòng cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu là một cuộc hôn nhân lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được chăm bón vun xới mỗi ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Còn lấy nhau vì tiền của, vì lợi lộc, lấy nhau vì chức tước và địa vị thì sẽ không bao giờ tạo hạnh phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ vỡ. Nhưng tình yêu không chân thành, không thôi thúc cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình mà cần phải có những nhân đức Kitô và nhân đức xã hội.

Trong chương III thư gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin trong cuộc sống thường ngày. Trước khi đề cập đến bổn phận của các thành phần khác trong gia đình, thánh nhân nhắc cho mọi người biết một số các bổn phận căn bản phát xuất tự lòng tin Kitô: Là những người được chọn làm con cái Thiên Chúa, là thành phần sống động của xã hội và là công dân Nước Trời, hơn ai hết người Kitô hữu phải noi gương Chúa Giêsu sống tình yêu thương bác ái trọn vẹn cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Bởi vì, chính thái độ sống yêu thương là thái độ sống nền tảng cho người Kitô hữu, giúp họ thực sự trở nên giống Thiên Chúa, và là nền tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân đức xã hội, nhân bản.

Do đó, thánh Phaolô thôi thúc chúng ta hằng ngày biết mặc lấy tâm tình của lòng thương xót, nhân từ, khiêm tốn, dịu hiền và kiên nhẫn. Tất cả các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu khí hài hòa trong nội tâm, trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng thương xót và nhân từ, chúng ta sẽ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu đuối của nhau, và dễ tha thứ cho nhau hơn bắt đầu bằng các thành phần trong gia đình mình, vợ chồng, con cái, họ hàng, bạn bè. Khi khiêm tốn, chúng ta cũng biết nhận ra những tội lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của chúng ta chứ không luôn luôn cho mình là phải, là hay, là giỏi, là nhất, và hung hăng chỉ trích lên án và kết tội người khác.

Khi khiêm tốn, chúng ta dễ châm chước cho người khác, vì biết rằng mình cũng như họ thôi, hay đôi khi còn tệ hơn họ nhiều và chúng ta sẵn sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bù sửa chữa. Khi hiền dịu và khiêm tốn, chúng ta không nóng nảy gay gắt với người khác, mà biết chịu đựng mọi thiếu sót, sơ xuất của họ, đồng thời ý thức được rằng người khác cũng đang phải kiên nhẫn chịu đựng những thiếu sót và sai quấy của mình.

Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và cùng với ơn thánh Chúa ban cho mỗi ngày, chúng ta có thể tập được các nhân đức trọn lành này. Sau khi khuyến khích mọi người mỗi ngày hãy mặc lấy tâm tình và tìm sống các nhân đức trên đây, thánh Phaolô đem nguyên tắc xem ra đơn sơ, nhưng thực hiện được cho đúng quả thật không dễ. Đó là mỗi thành phần trong gia đình hãy cố gắng sống bổn phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý Chúa muốn: “Vợ hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt gỏng với nàng. Còn con cái hãy thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ hãy biết khoa sư phạm và rành tâm lý theo kiểu cách dạy dỗ, cư xử với con cái, đừng quá khắt khe đòi hỏi kẻo chúng chán nản ngã lòng”.

Có người coi cái tôn ti trật tự của cuộc sống gia đình như thánh Phaolô trình bày là bất công, kỳ thị và lỗi thời. Vì trong xã hội nam nữ bình quyền, đặc biệt ngày nay trong liên hệ giữa vợ chồng với nhau họ được bình đẳng. Nhưng nếu chúng ta để ý đến nguyên tắc lấy tình yêu thương làm nền tảng cuộc sống thường ngày như thánh Phaolô đã nêu bật thì sẽ không có vấn đề nữa. Bởi vì trong yêu thương thì tất cả mọi người đều như nhau, không có phân chia ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ gặp khó khăn hay khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dù có gặp những khủng hoảng, khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành phần gia đình đều có tình yêu thương đích thật thì tất cả đều được san bằng trong yêu thương hợp nhất. và nếu sống tình yêu thương đó cách cụ thể thì sóng gió nào rồi cũng sẽ êm và con thuyền tổ ấm gia đình tiếp tục tiến tới. Sống yêu thương chân thành quảng đại vô vị lợi không phải là chuyện dễ, nhưng là điều có thể làm được và cần phải làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính mình và cho người khác.

Sự thật này được minh chứng trong trình thuật Phúc Âm thánh Luca chương II: Sự thường mười hai tuổi vẫn là lứa tuổi thiên thần dễ thương và dễ mến nhất. Trong dịp cả gia đình đi hành hương ở Jérusalem hôm ấy, Chúa Giêsu đã khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải rụng rời tay chân, khi Chúa Giêsu tự ý ở lại trong đền thờ mà không nói gì với hai người. Sau ba ngày hớt hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, hai ông bà cảm thấy con đang đàm đạo đối chất với những tiến sĩ luật trong đền thờ.

Câu trách móc nhẹ nhàng của Mẹ Maria cho thấy tất cả tình yêu thương hiền dịu của Mẹ và của thánh Giuse đối với Chúa Giêsu là một lời trách móc đầy yêu thương kính trọng. Sự im lặng của thánh Giuse thật vô cùng ý nghĩa: nó vừa tỏ nỗi lo âu một cách thầm kín, vừa cho thấy thái độ của thánh nhân tôn trọng tự do của Chúa Giêsu và biết chấp nhận sự kiện không thể giải thích được. Bởi thánh nhân biết chắc phải có lý do nào kín ẩn lắm mới khiến cho một người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái độ hành xử này.

Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải thích cho hành động bất thường ấy đã minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, Chúa Giêsu đã ý thức được sứ mệnh và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế giới và có sứ mệnh phải chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi, kể cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuy không hiểu được câu trả lời của Con, Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi sự và  suy niệm trong lòng. Cuộc suy gẫm ấy sẽ lâu dài và đau đớn, và Mẹ chỉ hiểu được mầu nhiệm đó khi đứng dưới chân Thập Giá của Người Con trong ngày Chúa Giêsu tử nạn vì yêu thương.

Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại theo Cha Mẹ về Nazareth, lớn lên trong khôn ngoan, tràn đầy ơn thánh, yêu thương tuân phục các Ngài cho tới ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ.


8. Gia đình mẫu mực cho mọi gia đình

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Nếu có ai đặt câu hỏi: gia đình nào xứng đáng là mẫu mực cho mọi gia đình khác noi theo, thì câu trả lời không gì khác hơn là thánh gia thất Nadarét.

Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã cùng nhau xây nên một gia đình rất đẹp, rất thánh thiện và gương mẫu nhất đời.

Thành viên thứ nhất: thánh Giuse, người công chính.

Là người công chính, thánh Giuse đã không hành động cách nông nổi điên cuồng như bao thanh niên khác khi thấy người bạn trăm năm của mình mang thai trước khi về chung sống. Ngài đã xử sự đầy bao dung, quảng đại và khôn ngoan. (Mt 1, 19)

Thánh Giuse là một người cha luôn mau mắn phục vụ gia đình không quản khó nhọc, không quản ngày đêm: “Đang đêm, sứ thần hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ và bảo: “hãy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập”, thì thánh Giuse tức tốc thi hành (Mt 2, 13-14). Rồi sau khi đã an cư lạc nghiệp bên Ai-cập, sứ thần Chúa lại báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en”, thánh Giuse mau mắn thi hành không do dự. ( Mt 2, 19 # 21)

Thánh Giuse là người lao động cần cù để nuôi dưỡng gia đình. Ngài chuyên chăm làm nghề mộc đến nỗi nói đến bác thợ trong làng Nadarét thì người ta nghĩ ngay đến thánh Giuse. Khi người Nadarét gọi Chúa Giêsu là con bác thợ, ai chẳng biết bác thợ đó là thánh Giuse. ( Mt 13, 55).

Thành viên thứ hai: Mẹ Maria, một người Mẹ tuyệt vời.

Một người Mẹ trổi vượt về khiêm nhường. Cho dù được sứ thần Gabrien gọi là “Đấng đầy ơn phúc” (Lc 1, 28), được bà Ê-li-sa-bét ca ngợi là người có phúc hơn mọi người nữ; (Lc 1, 42) thì Mẹ vẫn nhận mình chỉ là “nữ tì hèn mọn” (Lc 1, 48).

Một Người Mẹ đầy lòng yêu thương và phục vụ: khi vừa hay tin người chị họ cao niên được Chúa cho cưu mang con trai trong tuổi già, Mẹ tất tả lên đường tiến lên miền núi, tìm đến nhà bà Ê-li-sa-bét để chúc mừng và ở lại phục vụ người chị họ cao niên trong thời gian thai nghén và sinh nở ròng rã ba tháng trời.

Mẹ là người luôn quan tâm đến niềm vui và hạnh phúc người khác, thế nên khi dự tiệc cưới tại Ca-na, dù không phải là người nhà, Mẹ là người đầu tiên phát hiện tiệc cưới thiếu rượu và đã tìm cách chữa cháy cho sự việc nầy. (Ga 2, 3)

Là người Mẹ rất mực hiền lành, nên dù phải nôn nao, lo lắng, cực lòng tìm con suốt ba ngày ròng, khi gặp được con, Mẹ vẫn giữ được sự dịu dàng hiếm có: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”

Thành viên thứ ba: Chúa Giêsu.

Dù là Thiên Chúa Ngôi hai, Chúa Giêsu đã trở thành một người con hết lòng yêu thương và phục vụ cha mẹ trần thế. Trong ba mươi ba năm ngắn ngủi sống thân phận con người, Ngài đã bỏ ra đến ba mươi năm, tức 9/10 cuộc đời, để cùng với Mẹ Maria và thánh Giuse xây dựng gia đình Nadarét. Ngài đã đổ mồ hôi với công việc lao nhọc hằng ngày để nuôi dưỡng phục vụ Đức Mẹ và thánh Giuse cho đến tuổi ba mươi mới lên đường thi hành sứ mạng.

Dù là Thiên Chúa quyền năng nhập thể, nhưng Chúa Giêsu luôn tỏ ra là một người con hiếu thảo với cha mẹ trần gian. Thánh Luca tóm tắt cuộc sống tại gia của Ngài như sau: “Người hằng vâng phục cha mẹ… ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 51-52)

* * *

Thiên Chúa đã thiết kế và xây dựng một ngôi nhà rất đẹp, rất ấm cúng và thánh thiện là gia đình Nagiarét. Thiên Chúa nhận thấy đây là một mẫu nhà đẹp nhất nên Ngài mời gọi chúng ta dựa trên mô hình đó để dựng xây gia đình mình y như vậy.

Xây dựng gia đình mình theo mẫu nhà Nadarét là mọi người trong gia đình phải đối xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy, cụ thể là chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse và Chúa Giêsu; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.

* * *

Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình, nhắn nhủ: “Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình… Những gì mà các thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa”.

Thế là phần thưởng đời đời sẽ được Chúa Giêsu ưu ái trao tặng cho các thành viên gia đình biết yêu thương phục vụ lẫn nhau.

Và thế là một phần thưởng vô cùng quý báu đang nằm trong tầm tay mọi người.


9. Những thánh gia Nagiarét thời đại mới

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Có họ đạo nghèo ở vùng duyên hải miền Trung có tên gọi là Thánh Gia. Sở dĩ đặt tên như vậy là vì họ đạo nầy chọn Thánh Gia Nagiarét làm bổn mạng.

Phía bên hông nhà thờ họ đạo có một hang đá khá lớn, có bộ tượng hang đá bằng thạch cao to bằng tầm vóc người trưởng thành.

Hằng năm vào dịp lễ Thánh Gia, bổn mạng của giáo xứ, theo một truyền thống đã có từ lâu đời, sau khi lễ tan, các gia đình trong giáo xứ tập trung đông đảo chung quanh hang đá cầu nguyện với thánh gia thất và mỗi gia đình cử ra một vị đại diện tuần tự tiến lên theo hàng đôi đến trước bộ tượng hang đá, dâng lên Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giu-se những bông hoa thắm tươi và thơm ngát để tỏ lòng tôn kính mến yêu của mình.

Thế rồi một biến cố đau lòng xảy ra trong dịp trước giáng sinh năm ấy, một nhóm trẻ tinh nghịch từ làng bên vì có thù hận với nhóm trẻ trong xóm đạo, đã kéo đến vào ban đêm đập phá bộ tượng hang đá vỡ ra nhiều mảnh.

Sự việc nầy khiến cho nhiều người hoang mang và bối rối!

Biết làm sao bây giờ, khi ngày lễ thánh gia đã gần kề? Tìm đâu ra bộ tượng ba Đấng mới thế vào bộ tượng đã bị phá tan? Nghi lễ dâng hoa cho ba Đấng vào mỗi dịp lễ Thánh Gia là một nghi lễ truyền thống đã được thực hiện xuyên suốt từ hơn trăm năm qua, không có năm nào bỏ qua, lẽ nào năm nay không tổ chức được?

Vì giáo dân trong xứ quá nghèo, Cha xứ và hội đồng mục vụ không thể huy động đủ tiền để đặt làm bộ tượng mới và dù có huy động đủ tiền cũng không thể đặt một bộ mới trong khi thời gian đã cận kề.

Trước tình thế đó, Cha Xứ có một sáng kiến táo bạo: Ngài cho mời đôi vợ chồng mới sinh đứa con trai đầu lòng được chừng tháng tuổi và mới được rửa tội mấy ngày trước, mặc y phục truyền thống thật chỉnh tề, đóng vai Đức Mẹ, thánh Giu-se và Chúa Giêsu thay cho bộ tượng hang đá bằng thạch cao đã bị hư hại. Ngài sắp xếp cho cặp vợ chồng quỳ bên trong hang đá, chầu hai bên đứa con thơ ở giữa họ và kêu mời đại diện các gia đình trong giáo xứ tiến lên theo hàng đôi dâng hoa cho ba vị nầy.

Sáng kiến nầy đã làm cho một số người trong họ đạo cảm thấy bị sốc. Họ cho rằng làm như vậy là quá đề cao gia đình người tín hữu và xúc phạm đến ba Đấng thánh.

Cha Sở cố gắng diễn giảng cho họ như sau:

Khi đề nghị gia đình anh chị Năm đóng vai Giu-se, Mẹ Maria và Chúa Giêsu thế chỗ cho bộ tượng ba Đấng bằng thạch cao bị hư, chúng ta không làm gì xúc phạm đến ba Đấng thánh, nhưng chúng ta xem gia đình anh chị Năm đây là hình ảnh rất trung thực và cao quý về Thánh Gia của Chúa Giêsu.

Lâu nay, chúng ta quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng thạch cao, bằng xi măng hay bằng nhựa dẻo, và chưa quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng xương bằng thịt có sự sống, có linh hồn, có lương tri, có trí tuệ như anh chị Năm đây, nên chúng ta cảm thấy bị sốc.

Nhưng xin quý ông bà hiểu điều nầy:

Thứ nhất: mỗi một người tín hữu đều có phẩm giá rất cao và được gọi là thánh. Thánh Phaolô gọi các tín hữu thuộc các giáo đoàn (nay gọi là giáo xứ) là thánh. Họ được hiến thánh nhờ bí tích thánh tẩy. Nhờ bí tích nầy họ trở thành chi thể, thành thân mình Chúa Giêsu.

Thánh Phaolô nói: “Nào Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (1Cr 6,15)

Ngoài ra, các tín hữu còn được Chúa Giêsu cho trở nên cùng một xương thịt với Người, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa, được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ đón nhận bí tích Thánh Thể.

Như vậy, không có một sản phẩm nào do tay người phàm làm ra dù bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng đá hay bằng kim loại quý như bạc như vàng… xứng đáng được chọn làm hình ảnh của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria, của thánh Giu-se cho bằng chính mỗi người Kitô hữu chúng ta.

Thứ hai: Hội Thánh công giáo xưa nay vẫn nhìn nhận gia đình của Kitô hữu là gia đình thánh nên Giáo Hội quen gọi đó là những hội thánh tại gia.

Chúa Giêsu còn lập bí tích hôn nhân để thánh hiến đời sống vợ chồng. Thế nên không gì thích hợp cho bằng chọn gia đình Kitô hữu làm biểu tượng cho thánh gia Nagiarét.

Sau khi hiểu được những điều cha xứ giải thích, mọi người vui vẻ dâng những đoá hoa thật đẹp thật tươi cho anh chị Năm được cử đóng vai thánh gia Nagiarét.

Rồi qua những năm sau, nhiều người trong giáo xứ đều thấy thật là thích hợp và đầy ý nghĩa khi chọn một gia đình công giáo trong họ đạo đóng vai thánh gia Nagiarét thay vì dùng bộ tượng thạch cao, nên cộng đồng giáo xứ thoả thuận với nhau rằng: đôi vợ chồng nào mới sinh con và được rửa tội sớm nhất trong tháng 12 dương lịch thì sẽ được chọn đóng vai thánh Giu-se, Đức Mẹ và Chúa Giêsu để cho giáo dân kính viếng. Và cũng từ lúc đó, thay vì dâng hoa cho ba Đấng như trước đây, người ta dâng cho em bé trong vai Giêsu những hộp sữa; dâng cho người mẹ trong vai Maria những cuộn chỉ, những chiếc kim, chiếc kéo; dâng cho người cha trong vai Giu-se những dụng cụ làm việc nho nhỏ như những chiếc kìm, chiếc búa, cái đục, cái bào…

Từ sự kiện nầy, các gia đình tín hữu trong xứ đạo đều ý thức mình là những thánh gia Nagiarét thời mới. Các đôi vợ chồng trong các gia đình luôn trân trọng và yêu quý nhau như tương quan giữa Mẹ Maria và thánh Giu-se. Cha mẹ biết chăm lo giáo dục con cái như Mẹ Maria và thánh Giu-se đã thực hiện với Chúa Giêsu năm xưa. Con cái luôn vâng phục và thảo hiếu với mẹ cha như Chúa Giêsu đã làm đối với thánh Giu-se và Đức Mẹ. Niềm vui, hạnh phúc và đời sống thánh thiện chan hoà trong các gia đình.

Ngoài ra, tương quan giữa các gia đình trong giáo xứ được cải thiện đáng kể vì ai nấy đều biết tôn trọng những gia đình khác vì xác tín rằng đó thực sự là những thánh gia.


10. Thánh gia, gương sáng của tin yêu

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Lần giở lại những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy gia đình đầu tiên của nhân loại đã được Chúa chúc phúc. Họ đã có những ngày tháng thật hạnh phúc bên nhau và bên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con người không có khoảng cách, chỉ có tình thân hữu thật thơ mộng mà Thánh kinh đã diễn tả: “chiều chiều Thiên Chúa tản bộ đi cùng con người trong vườn địa đàng”. Thế nhưng gia đình đó đã bị rạn nức và bị đổ vỡ. Nguyên do của sự đổ vỡ chính là họ chối từ Thiên Chúa, hành vi Adam – Eve giơ tay lên hái trái cấm là hành vi nói lên con người muốn gạt Thiên Chúa ra bên ngoài, muốn loại trừ Thiên Chúa nên con người cũng loại trừ và kết án lẫn nhau. Adam đã kết án vợ mình: “Tại người đàn bà này mà tôi đã ăn trái cấm”. Hậu quả của việc bất tuân phục Thiên Chúa là đau khổ và sự chết đã đi vào trần gian.

Nhưng, cho dù con người có ngàn lần phản nghịch, Chúa vẫn yêu thương con người, Chúa vẫn tìm đến để cứu chuộc con người và phục hồi lại giá trị của hạnh phúc gia đình thuở ban đầu. Thiên Chúa đã mang xác phàm để ở giữa chúng ta. Ngài đã sinh ra trong một gia đình, lớn lên trong một gia đình, và chính Ngài đã thánh hoá gia đình đó trở thành gia đình thánh, mẫu gương cho các gia đình noi theo. Đó là một gia đình luôn biết tuân phục Thiên Chúa, luôn phó thác cậy trông vào Chúa. Gia đình đó có thánh Giuse đã vì Chúa mà đón nhận Maria về làm bạn mình, đã vì Chúa mà lận đận vượt trăm ngàn nguy khó để bảo vệ sự sống cho hài nhi và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Gia đình đó có Đức Maria, một người Mẹ của cầu nguyện và hy sinh. Mẹ đã phó thác hoàn toàn cho thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Mẹ đã tận hiến đời mình như một nữ tỳ nhỏ bé để phụng sự Thiên Chúa. Gia đình đó còn có Chúa Giê-su, một người con hằng yêu mến cha mẹ, càng lớn càng khôn ngoan, hằng đẹp lòng Thiên Chúa và người ta.

Và cho đến hôm nay, mỗi khi chúng ta thấy có những người cha, người mẹ biết sống tôn thờ Thiên Chúa là họ đang để cho Chúa canh tân, gìn giữ gia đình. Họ đang vui với phận mình trong niềm tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Họ có thể nghèo khó nhưng tấm lòng họ lại thanh thoát, không gian tham của người. Họ có thể lam lũ, một nắng hai sương nhưng tấm lòng họ lại thanh cao như đóa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Họ vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ, không chỉ một lần mà trải rộng mọi ngày cho đến suốt cuộc đời. Họ là những gia đình thánh gia cho thời đại hôm nay. Họ vẫn tiếp tục nêu gương sáng trong bổn phận, trong đời sống thanh cao và giầu lòng quảng đại.

Song le, giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người chồng, người cha đang bê tha rượu chè, đang ngoại tình lang chạ, đang đánh mất niềm tin với Thiên Chúa nên cũng bỏ bê gia đình. Giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vợ đang bất tín, bất trung, đang thiếu trách nhiệm và hy sinh cho gia đình, vì họ không còn niềm tin nơi Chúa nên cũng chẳng còn hy sinh cho nhau. Giữa giòng đời hôm nay, vẫn còn đó những người con đang lao vào những danh lợi thú trần gian mà lãng quên tình Chúa nên cũng xem thường tình cha, nghĩa mẹ.

Thực vậy, nếu trong cuộc đời này không còn ai tin tưởng vào Thiên Chúa, không còn ai tin vào đời sau, có lẽ sẽ chẳng còn ai dám hy sinh cho gia đình, hy sinh cho tha nhân. Không có đời sau thì người ta sẽ sống vì mình, vì hạnh phúc của mình, vì đam mê của mình mà chà đạp người khác và thiếu trách nhiệm với tha nhân.

Nguyện xin Thánh gia nâng các gia đình đang gặp những khó khăn thử thách. Xin cho các gia đình công giáo biết noi gương thánh gia để sống hy sinh cho nhau và cùng nhau xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Amen.

Lễ Thánh Gia (C): Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
  • Blogger Comments
  • Facebook Comments
Top