GIÁO XỨ BÁC TRẠCH | GIỚI THIỆU-WEB
GIÁO XỨ BÁC TRẠCH
Xứ Bác Trạch nằm trên đất Vân Trường – huyện Tiền Hải – tỉnh Thái Bình.
Bác Trạch – Vân Trường do sự xếp đặt của một nhà Văn thân yêu Ngước trong phong trào Duy Tân của cụ Phan Bội Châu và thế kỷ XVII.
Bác Trạch được mang tên gọi của tổ thiên đã có trong hai ngàn năm văn hiến của Đất Nước.
Đang né mình vào lòng Trinh Nữ Maria và gối đầu vào đất Tổ mà uốn mình vươn lên theo vận mệnh chiều dài của lịch sử Giáo Hội – Xã Hội.
Bác Trạch: Đông giáp Tây Phong.
Bắc giáp Phương Công.
Nam giáp Bắc Hải.
Tây giáp Quang Trung.
Nằm ở phía nam Quốc lộ 33B. Cách Thành Phố Thái Bình 22Km về phía đông nam.
Là một giáo xứ hẹp về địa dư, chật về kinh tế, mà môi trường sinh sống chiến 95% là mến đất yêu đồng.
Dân cư thưa thớt. đứng giữa mảnh đất này mà nhìn về chân trời xa xôi năm tháng. Nó như Thiên phú mà mang nặng một sự ưu tư sâu đậng giữa đôi bên hôm qua và hôm nay ra sao.
Tất cả đều mang một sự hy sinh sống còn của con người Kito Hữu với lòng mến Chúa yêu tổ quốc. Để giành một tột đỉnh cao cho cuộc đời mà tuổi già đã mỏi mệt mà mang một giấc nghỉ yên làng đó là Tâm coosts của đạo bác ái.
Ngoại cảnh cho thấy những năm tháng song gió thê thảm của thời đại minh mạng – tự đức, đạo ngàn cân trên sợi tóc.
Nhân dân cư trú của đất Bác Trạch là người của 13 dòng họ tụ họp về đây lập ấp lập làng từ thời cụ Nguyễn Công Áng, hay còn nhà Thờ Tổ tại xã Vân Trường được trùng tu xây dựng từ năm 1917 là năm đinh tỵ đã được cấp nhận di tích văn hóa của tỉnh Thái Bình.
Đất Bác Trạch có hai tôn giáo: Công Giáo – Phật Giáo.
Đạo Công Giáo có vào từ năm 1735, còn trước không rõ về truyền thống của Bác Trạch từ xa xưa luôn đoàn kết lương giáo và tôn trọng tín ngưỡng của nhau.
Bác Trạch còn có mối liên kết gia giáo hôn nhân họ hang quyến thuộc rang buộc, cho nên mọi việc như hiếu hỷ đều có truyền thống ghé vai gánh vác không hề phân biệt.
PHẦN 2. DỰNG MÓNG XÂY LỀU
Lần theo truyền thuyết thì không có gì làm bằng chứng nhưng theo “sử ký địa phận trung – trang 44” thì linh mục Tế đầu tiên đến Bác Trạch. Gọi là Cha Phan-xi-cô Tế, tên ở nước người là PFRancisco ctit de Re do Rinh được cử về Bác Trạch giảng đạo vào năm 1735. Dưới thời Lê Trịnh
Về dân cư bấy giờ có ông Phạm ĐÌnh Nghiễm được nhà Vua phong là Vũ Bá Hộ, ông có nhiều bằng hữu với tầm nhìn xa. Ông đã có diễm phúc được gặp nhiều các Đấng Bậc cho nên ông đã vinh dự được đón nhận đức tin. RỒi chính ông là cái nhịp cầu đưa ánh sáng đức tin đến với con người Bác Trạch.
Năm 1735, Cha Phan-ci-cô Tế dòng Đaminh gốc Tây Ban Nha được Đức Giám Mục Địa Phận khi đó gọi là địa phận đông đằng ngoài cử về giảng đạo tại Bác Trạch được 2 năm, đến năm 1737 đời vua Lý Tông niên Hựu ráo riết cấm bắt đạo thì người lại bị bắt vào ngày 3 tháng 8 năm 1737, tại Lục Thủy - Nam Định, rồi nàu được quan phủ đưa ra pháp trường Đồng Mơ Hà Nội và xử chem. Vào ngày 22 tháng 01 năm 1745.
Cha Phan-ci-cô Tế qua đời, Linh mục đến Bác Trạch là Cha Án vào năm 1760 ở dòng Đaminh. Đạo Thánh CHúa có ở Việt Nam thì các hang Giáo Phẩm gọi như sau:
Linh mục bản Quốc gọi là Cụ.
Linh mục ngoại Quốc gọi là Cha.
Nhìn lại mảnh đất Bác Trạch nằm suôi dòng Cốc Giang độ 1000m chặy dài nằm vắt ngang một khu đất. Đất Bác Trạch hiện ra trù phú trên một vệt sông nhân tạo, trăng rằm rọi xuống như phủ bạc để lộ ra một kho báu vô tận.
Thời điểm này, Bác Trạch đã có 1429 nhân danh. Đất Bác Trạch có một đình làng và một miếu thờ Tam Vỵ Đông Tây Nam hải và một văn chỉ ở khu đất công chuông bên bắc.
1. NHÀ THỜ ĐẦU TIÊN.
Gọi là nhà giáo do ông Phạm Đình Nghiễm được nhà Vua phong quan Vũ Bá Hộ, nên ông có quyền hành và thế lực. Songong lại có lòng mộ mến Đạo Thánh Chúa, ông thường được các Đấng Bậc tôn nể.
Thời kỳ này, ở khu Tây Đoài (khu 4 xóm 6 hiện nay), có một khu đất Quan Phạm Đình NGhiễm xây Chùa Trạch. Đất còn lại quan cho giáo hữu đầm tường lợp rạ là nhà Giáo để cầu nguyện
Bấy giờ gọi nhà Nhà Thờ đầu tiên lấy tước hiệu Đức Bà Rosa. Và nhận Quan Thầy phái nam thánh Đaminh, Phái nữ thánh Philomena đồng trinh tử vì đạo.
2. NHÀ THỜ THỨ HAI.
Năm 1770, sau khi Cha Tế, Cha Án qua đời thì xứ đạo Bác Trạch lại được đón nhận Cha Từ xứ Kẻ Diền ở An Lập – Minh Hòa (huyện Hưng Hà), về coi sóc được 3 năm, đến năm 1773 dưới thời Kinh Đô Vương, người bị bắt rồi cũng bị xử chém tại pháp trường Đồng Mơ – Hà Nội.
Năm 1770, Nhà thờ ở Chùa Trạch ẩm thấp và dột nát, mãi đến năm 1802 cho chuyển về khu Đông Đoài (nay là thổ ông Quản Tuyên khu 4 – xóm 6 – thuộc thôn Bác Trạch 2).
Cái dải đất như vệt chỉ đặt nằm chạy dài, ôm lấy một khu đất Thánh khác nào như thảm vàng dãy bạc đã sinh bao mầm sanh hoa trái, nó chưa đậm một hương sắc của vườn hoa Văn Côi, dưới sự đùm bọc của người Mẹ hiền đang vồn vã giơ hai tay nâng lưu những đoàn con đang lênh đênh giữa đại dương, trước những cơn sóng dữ, mà né mình dưới các đời triều Lê Trịnh – Cảnh Hương.
Các bậc giảng đạo ngày càng khó khăn, mãi đến năm 1858 xứ Bác Trạch lại được Bề Trên cử Cha Án – Cha Báu về coi sóc.
Ngọn nến Đức tin như sợi dây vàng đang chăng dải khắp mảnh đất thân yêu này.
Về phần riêng tư của lối sống đạo, nó đang hun đúc tấm lòng mến Chúa yêu người của mỗi người Kito Hữu, họ đã được rửa trong mầu nhiệm của nước hằng sống.
3. NHA THỜ THỨ 3.
Mùa hè năm 1880, Cha già Lương (Tiền giảng đạo Hậu Thanh Tra), người về coi xứ Bác Trạch. Qua sự quan phòng của Thiên Chúa và sự đồng cộng nên sự phát triển của Giáo hữu ngày đông.
Cái nền móng Đức tin cũng như sự xây dựng lại đơn sơ cùng với hoàn cảnh kinh tế khó khăn, cho nên gặp phải thiên tai bão táp, nhà thờ không thể ổn định.
Phần nữa, dịa dư chật hẹp, phần nào dựa vào điền địa bất đồng của thời đại Phong Kiến.
Cho nên năm 1880, Lại chuyển nhà thờ lên khu Hợp Nghĩa, nay gọi là xóm 5, áp với khu Nam Bình gọi là xóm 6. Nhà thờ vẫn làm đơn sơ bằng tre, tường đất, mái lợp rạ.
Cũng trong năm này, Cha cho Giáo hữu đi Thanh Hóa lấy gỗ về làm nhà thờ, lấy được 3 bè gỗ lim, phân chia cho họ Nam Trại một bè, họ Quan cao 1 bè và Bác Trạch 1 Bè.
4. NHÀ THỜ THỨ 4.
Năm 1895 Cha Tràng Tín về Bác Trạch, người lại cho chuyển về đầu khu Hợp Nghĩa áp khu Y Nhân.
5. NHÀ THỜ THỨ 5
Với hoàn cảnh hẹp về địa dư chật về kinh tế. Nhưng Dân số ngày một tăng, lối sống đạo đang đòi hỏi các Đấng Bậc Chủ Chăn luôn nhìn vào sự đi lên của lớp người trong lúc đạo đang ở dạng không cân không đấu đong.
Tuy có chuyển nhà thờ đi nơi khác, nhưng sự xây dựng vẫn còn thô sơ nên mãi đến năm 1934 đời 2 Cha về coi sứ :
1. Cha Phạm Kim Bảng.
2. Cha Tràng Nam
Và ban hành giáo cùng tập thể Giáo hữu đem bán nhà thờ nhỏ bé này cho họ Luật Trung thuộc xứ Thanh Châu. Rồi xây cất nhà thờ lớn.
Đất Bác Trạch vào năm 1895 sau thời kỳ Tự Đức Pháp Sấp ĐIền địa Phước Tập, số nhân danh tăng vọt sự thất thố của cuộc đời nhiều ít người dân cũng đã từng nếm những mùi ô nhục. Tha phương cầu thực, đồn điền hầm mỏ để lánh thân nuôi đời ở thời cuộc mồ hôi đổi lấy lúa thơm haixwowng một nắm sớm hôm chuyên cần.
Đất ở, ruộng cày bọn quan lại Phong Kiến sô đẩy nhau mà cắn xé tranh dành chiếm đoạt, hòng thôn tính những đường gân thớ thịt của người giáo hữu ngoan đạo. Những lúc này họ đi đâu về đâu và làm gì cho ngài mai.
Bác Trạch với 18630 m2 được chia ra làm 2 phần, một là khu nhà chung với 9330 m2, và Nhà Thờ 9330 m2 không kể 2 ao hồ thả cá, và một số ruộng cấy lúa như cánh đồng bắc đường có 15 dây. Còn có tên gọi là Thập nhất đời Tứ Nhất đỗi viên ngũ nhất đỗi thuộc của nhà chung còn lại là thuộc của hương bạ chức dịch khu cán trong làng.
Cha già Lương : ngài mua đổi bằng điền bạ với chức dịch để lấy đất cao (thổ cư) để xây dựng một ngôi Thánh Đường với tầm cỡ nhất nhì Địa Phận Thái Bình.
Ngài cho xây cất hai tháp chuông trước rồi xây nhà thờ sau. Hai tháp chuông nhà thờ Bác Trạch được xây dựng từ năm 1880 cho đến năm 1888 là năm Mậu Tý mới hoàn thành. Cổng phía Nam, phía Bắc xây theo kiến trúc thờ nhà Hán với đường nét tay nghề Vương gia Hán Trung mẫu của đời nhà Tống. Mẫu này của một ngôi Chùa ở Trung Hoa mang tên gọi là Đại Tích – Hàn Thành của tỉnh Hoa Sơn, cổng phía Nam đề là «Lộng Lẫy Tháp Báu », cổng phía Bắc đề là « Cổng Đường Vạn Hương ».
Bác trạch khi mua đổi bằng điền bạ với uy thế tiền giảng đạo Hậu Thanh Tra, Cha già Lương sau khi xây cất 2 tháp chuông hoàn thành, thhif tháng 8 năm 1884 Cha già Lương cho xây khu vực nhà mụ còn có tên gọi là nhà Thương, với mục đích để đón nhận những tấm lòng khiết tịnh của giới nữ. Họ đang đồng hành và làm những gì mà tạo nên mẫu mực của Đức Trinh Nữ Maria của Thế Giới Hằng Sống.
Năm 1934 Hai Cha :
1. Cha Giuse Phạm Kim Bảng.
2. Cha Gioan Tràng Nam.
Hai Cha về coi sóc Bác Trạch, ngài đồng ý cùng quý Ban Hàng Phủ và cộng đoàn Giáo xứ tả đơn đệ trình Đức Giám Mục Casado Thuận Thái Bình và nhượng lại nhà thờ bé nhỏ và toàn bộ sơn son thiếp vàng cho họ giáo Luật Trung rồi xây cất ngôi nhà THờ mới có chiều dài 60m, rộng 25m, theo quy trình với tay nghề kiến túc cao theo đường nét phương đông.
Bàn độc bằng gạch thủ công, gian Thánh lát đá hoa, nền nhà Thờ liệt bằng gạch.
Nên có thơ rằng
Sừng sững trời Nam nếp Thánh Đường
Càng nhìn càng tỏ vè phang trang
Tòa trên Chúa ngự quyền long trọng
Ghế dưới con Chầu dạ kính dâng
Lộng Lẫy tòa Vàng cây tháp báu
Vững bền cốt sắt cột xi măng
Ngàn thu công giáo còn hưng thịnh
Cha Bảng Bác Trạch ghi công tạc đá vàng.
Bác Trạch một khu đất mầu mỡ có dòng Cốc Giang nằm vắt ngang một khu điền ruộng hàng 100ha, Hàng năm dẫn tải một lượng phù xa tưới mát cho hàng 100ha mà tạo nên một nguồn lương thực để nuôi sống những tín hữu họ đã giầu lòng mến Chúa yêu Tổ Quốc.
Giáo xứ Bác Trạch chuyển cất nhà thờ. Nhà thờ lần thứ 5 mới định cư vĩnh viễn xây dựng với đường nét Phương Đông.
So sự cộng hiến tận tình ngày đêm của hai Cha : Phạm Kim Bảng và Trang Nam, cùng Ban Ngành Giáo bấy giờ là cụ Hier Phạm Quang Xước,trùm 2 là cụ Hier Nguyễn Hữu Quý, cụ Hier Trần Bá Ngạc chạy vật tư và 4 khu có bốn ông Đốc Công.
Khu 1 : gọi là khu Y Nhân có ông Hier Phạm Dũng.
Khu 2 : gọi là khu Hợp Nghĩa có ông Hier Quýnh.
Khu 3 : gọi là khu Nam Bình có ông Hier Trừng (cả Trừng).
Khu 4 : gọi là khu Tây Ninh có ông Hier Lãm (Đốc Lãm).
Bốn ông này có quyền thay Cha xứ điều hành công việc trong lúc hai Cha đi vằng.
PHẦN 3. NHỮNG BƯỚC CHÂN NGƯỜI ĐI TRƯỚC.
Lần theo sử ký Địa Phận Trung 1916. nói về đời Vua cấm đạo.
Năm 1712 Chúa An Vương trang 34.
Năm 1737 Vua Cảnh Hưng trang 43.
Năm 1765 Trịnh Đô Vương cấm đạo trang 62.
Năm 1858 Vua Tự Đức trang 74.
Năm 1861 Tự Đức Phân Sáp
Từ lúc mưu đồ đen tối đê hèn đề ra luật cấm đạo, vua An Vương năm 1712 cho đến thời Tự Đức giảm và bỏ luật cấm đạo năm 1862 là 150.
Cảnh đê hèn cấm sát đạo của các thời kỳ phong kiến đế quốc. Như mây mù giông tố ập đến nhằm bóp nát và dập tắt những hương nồng trong ánh sáng Đức tin của Đạo Chúa Kito nói chung, và các tín hữu Bác Trạch nói riêng.
Luật cấm đạo của thời đại vua Chúa là ngọn giáo tẩm đầy những chất dodcj như nanh vuất của miệng hùm lưỡi sói. Hét ra những án tử hình như nột da, nấu thịt hòng cản lại những cao trào của Đạo Thánh Chúa tại Việt Nam.
Như cướp bóc, đốt phá, tù đầy, voi giầy, ngựa hý, lột da dồi trấu, trao đầu, vạc dầu ...
Song lời Chúa là ngọn đuốc thiêng vẫn bùng bùng trong tâm hồn người Kitoo Hữu của xứ Bác Trạh. Hương thơm ấy không làm phai mờ, hay quên được các Đấng bậc và các tín hữu đã mỉm cười hiên ngang trước những án tử hình đẫm máu tại pháp trường Việt Nam.
Như Cha Phan-ci-cô Tế dòng Đaminh gốc Tây Ban Nha, bị chảm quyết tại pháp trường Đồng Mơ Hà Nội, dưới triều cảnh hưng năm 1745 (tên thật của người pha PFRam ci-cô-Gits deFe. Ngài được phong Á Thánh năm 1906 do Đức Thánh Cha Pi-ô X phong.
Á Thánh thứ 2 là Cha Chính Gia Tên ở Nước người là (PFA Cin-Tô-Canh Taneri) cùng bị sử chém cùng ngày và được phong Á Thánh cùng với Cha Tế.
Cả Hai Cha cùng Được Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II Phong Thánh ngày 19/6/1988.
Ngoài các Ngài ra, đất Bác Trạch còn có 5 tín hữu có tên dưới đây :
1. Ông Đôminnicô Trâm.
2. Ông Đôminicô Uông.
3. Ông Đôminicô Nhuyễn.
4. Ông Đôminicô Lượng.
5. Ông Đôminicô Thược.
Năm tín hữu này có lời kể tại Tòa Thánh như sau :
Ông Đôminicô Trầm là con ông Đôminicô Cần 50 tuổi, sinh tại làng Bác Trạch tỉnh Thái Bình.
Là nông dân hiền lành đạo đức đã có 2 lần lãnh bí tích Hôn phối và có nhiều con cái.
Người bị đến quan phủ cùng với các người đồng hương, người đã đạp Thánh Giá một lần nhưng việc đó không ảnh hưởng gì cho người. Vì vậy người lại bị Quan bắt cùng với các bậc tôi tá Chúa là ông Kiền và ông Cân.
Viên quan lại bắt buộc các tôi tá Chúa đạp Thánh Giá một lần nữa, nhưng lần này Tôi Tá Chúa trả lời.
« Thưa quan lớn, con đã phạm tội đó một lần tại tòa quan rồi, con thú nhận đó là một trọng tội của con, từ nay trở đi không bao giờ con giám tái phạm đạp Thánh Giá nữa đâu ».
Do đó, người bị quan điều đi tỉnh lỵ Nam Định, dọc đường ngượi bị bọn lính hành hạ nhiều cách.
Quan tổng đốc lại ra lệh cho tôi tá Chúa đạp Thánh Giá. Nhưng người lại trả lời như đã trả lời với quan huyện.
Quan tổng đốc ra lệnh đem tôi tá Chúa cho Voi giầy. Con voi hung hãn vâng lời chủng dùng vòi cuộn chặt người tô tắ Chúa rồi tung lên cao rơi xuống gẫy một bên xường, quần áo rách nát toàn thân loang nổ máu hồng.
Người tôi tá Chúa sau khi tỉnh dậy đã đứng lên cùng với các bạn của mình ở đó đồng thanh hô to : « Nào các anh em ta hãy kiên tâm chúng ta chỉ chết có một lần thôi ». Nghe lời đó quan lại giạn bầm gan tím ruột. Viên quan giám sát lại ra truyền cho con voi thúc mạnh hơn nữa. Lập tức con voi lại quận người tôi tá Chúa rồi tung lên cao khi rơi xuống nó lấy hai chân giầy vò một cách hung bạo. Người tôi tá Chúa tức thì tắt hơi thở, hôm đó vào ngày 17 tháng 9 tại pháp trường nam định.
Ông Đôminicô Trần Quý nhuyên cũng bi sử tại Nam định bằng hình thức tuốt nứa. theo cáo tấu trong di chúc tằng tôn phụng bạ tại Thánh Vụ Rô-ma như sau :
Lời kể :Tôi tá chúa là ông Trần Quý Nhuyên là ngành thứ 4.
Sinh thời vua Minh Mạng năm Canh Tý thứ 21. tức năm 1838. đến năm 1859 chịu chết tử vì đạo ở Nam Định cùng với 4 ông là ông Trâm ông Uông – ông Lượng – ông Thược năm này thánh nhân mới tròn 21 tuổi.
Thi hài được đưa về nhà thờ xứ ngày 16 tháng 5 Bảo Đại Thập Tứ Niên.
Cáo tấu hạ nghiên khai khẩn, tay bút bầy con là cụ Trần Xuân Tú tên thường gọi là cụ Bát Tập tấu sớ viết theo bản chữ Nôm.
Đất Bác Trạch tháng 5 trời vẫn đổ mưa những cơn mưa như phủ bạc hay lớp kim nhũ trắng toát nằm dưới lớp mây đen thẫm từ chân trời phía Nam, những ám ảnh sầu héo của thảo mộc như những khóm cỏ. Trời lộng gió nhưng không hề mảy may dung động, xen lẫn tiếng gà gáy trong đêm làm cho đất Bác Trachcj gwoij nhớ lại những giây phút hùng hồn lại pháp trường nơi biển máu của thời kỳ cấm đạo.
Năm thánh nhân như năm viên đá được nằm gữa một khu đất 7 mẫu (25200 m2) một pháp trường khét tiếng giết người.
Những người lính lệ đầu đội nón vệ binh trong bộ Binh Giám cuốn xà cạp với tay súng đứng bảo vệ năm viên đá mà tâm hồn ngây ngất trước vẻ đẹp huyền bí của mầu đen thẫm như hương Hồn của bầu trời sập đổ.
Là đá. Đá có linh hồn. Bề ngoài đá đang tắm trong tinh hoa, trong mưa gió. Mắt của khảo cổ, trong đá có nhiều huyền bí như hiên ngang lẫm liệt trước những làn roi vọt, đá vẫn mỉm cười trước họng súng của quân khát máu.
Đá cười xin các cược với trần thế, năm chúng tôi là đá để che cho thế gian khỏi thần khí giặc giã, đá mang lại hạnh phúc cho những ai có lòng mến đá, đá là mầu xanh của nước trời, là linh hồn của thời đại bây giờ và mãi mãi.
Giáo xứ Bác Trạch xin thắp nhưng nén nhang xuy tôn các thi hài mà quy tụ nơi đất thánh theo tinh thần cảu Bộ Thánh Vụ.
Đến năm 1938 Thánh Đường Bác Trạch xây cất hoàn thành, năm thu hài tín hữu trên được giáo hữu và các Đấng Bậc đưa ra xây mộ dựng bia ở phía Nam đầu Nhà Thờ.
Năm 1942 Đức Cha Địa Phận Thái Bình bấy giờ là Đức Cha Gioan Casado Thuận, người đã nhận tráp mời của Bộ Thánh Vụ và mang theo hồ sơ lý lịch của năm tín hữu trên cùng bản cáo tấu tâu lên trước Bộ Thánh Vụ và Đức Thánh Cha.
Nên tên tuổi năm tín hữu đã được ghi lại trong công hàm lưu trữ của bộ Thánh Vụ Rôma.
PHẦN 4. PHÂN CHIA CÁC GIÁO HỌ.
Bác Trạch từ không đến chỗ có, từ ít đến nhiều, nó đang vươn chải theo tinh thần ánh sáng của tay liềm tay hái , người thợ gặt đã sẵn có bản lĩnh như ánh sáng tinh thần Phúc Âm.
“Các con hãy sống trong lòng dân tộc”
Lời Chúa như tấm men hay nhịp cầu không khác như đoạn đường thẳng song song vô cực dẫn con đến gặp lại Thiên Chúa.
Đức tin moat thang thuốc bổ vô cơ dẫn con người ta vô nghiễm khuẩn. Đức tin cho nhân loại moat sức khỏe phi thường, chính có Đức tin mà con người luôn đoàn kết thương yêu nhau.
Bác Trạch mãi đến năm 1858 mới được Đức Cha Địa Phận Bùi Chu ban sắc. Lúc này Thái Bình Bùi Chu còn chung một địa phận.
Đến ngày 9/3/1936 (Bính Tý) Địa Phận Thái Bình mới được tách ra
Trang 185 trong “sử ký Địa Phận Trung”, đầu tiên ở Cao Mại có các thầy dòng tên coi sóc. Được một thời gian ác thầy được bản tòa điều về địa phận, thì Cao Mại kết hợp với Bác Trạch làm một.
Hai mảnh đất có tên tuổi khác nhau, Địa dư rộng, dân cư thưa thớt lẻ tẻ từng cụm dân cư thuộc các dòng họ về khai hoang lập ấp. Cho nên các Đấng Bậc giảng Đạo đã chia ra từng vùng để tiện cho việc điều hành các lễ nghi vì vậy Bác Trạch lúc đầu có các họ như sau:
Stt
Họ giáo
Quan thầy
Nhân danh
1
Quan Cao
Đức Bà Dâng mình
480
2
Họ Giáo Nghĩa
Đức Bà Bảy sư
603
3
Văn Lăng
Thánh Augustino
776
4
Công Bồi
Thánh Luca
334
5
Hữu Tiệm
Thánh Gioan Kim
341
6
Cao Đường
Thánh Phê-rô
285
7
Nam Trại
Thánh Phê-rô Tử Đạo
550
8
Trình Nhì
Thánh Giuse Công Nhân
162
9
Nam Trại
Đức Bà Truyền Tin
195
10
Phú Cốc
Thánh Tô-ma-sô
38
11
Cao Thủy
Thánh An-rê
153
12
Vát Cấp
Ba-tô-lô-mê-ô
151
13
Quân Trạch
Giuse
86
14
Trình Nhì
Antonie
32
15
Tân Cơ
Phê-rô
156
16
Phương Trạch
Thánh Mar-cô
98
Từ năm 1855 đến 1858 Cha Việt Nam lần thou hai về Bắc Trạch là Linh Mục An, những năm này số giáo dân trình độ hấp thụ đức tin còn non kém
Năm 1858 Vua Tự Đức cấm đạo cho đến năm 1861 Tự Đức Phân Sáp, các năm này luật cấm xát của bọ Phong Kiến, Đế Quốc ngày càng hung bạo hơn, chúng dựa vào thế lực đế Quốc bên ngoài, như Nhật, Pháp hàng thôn tính tấm long trung thành của Dân Tộc Việt Nam nói chung và người Ki-tô Hữu nói riêng, nhằm mục đích đưa người giáo dân vào con đường lạc hậu đen tối, cấm sát Đạo Chúa thì bọn Phong Kiến Đế Quốc lại đưa ra cúng bái bói toán, những người Ki-tô hữu Bác Trạch, dưới sự day bảo của các Đấng Bậc chỉ cho thấy con đường nham hiểm của bè rối sa tan nó là mưa ma chước quỷ. Nhưng con người giáo hữu Bác Trạch họ vẫn bảo tồn lấy cái tiếng thơm mà tiền nhân để lại, để ánh sáng đức tin được loan truyền trong mọi trường hợp, phong tỏa đi mọi nơi từ vùng cao xa xôi hẻo lánh. Nên các đấng bậc đã cho quy tụ từng vùng còi gọi là họ giáo.
Từ năm 1810 các địa dư danh giới vẫn còn giữ như cũ mãi đến năm 1813 thì các họ thuộc xứ Bác Trạch lại chia ra như sau.
1, Họ giáo Quan Cao
Thành lập năm 1816, Quan Thầy Đức Bà Dâng Mình. Nhà Thờ xây dựng 1879, sửa lại 1958 (năm Mậu Tuất), xây mới 1995 (năm Ất Hợi) và hoàn thành 1997 (Đinh Sửu)
2, Giáo Họ Công Bồi
Quan thầy Thánh Luca.
3, Họ Phương Trạch.
Thành lập 1885, Quan thầy Thánh Mar-cô, nhà thờ xây năm 1910 (năm Canh Tuất) đến năm 1986 bị cơn lốc thần cuốn hút toàn bộ còn để lại thân tường nhà thờ. Nhà thờ xây lại 1990 năm Canh Ngọ
4, Họ giáo Cao Bắc
Thành Lập 1936 (năm Bính Tý) Quan thầy Thánh An-tôn, và Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su. Nhà thờ xây năm 1937 (Đinh Sửu), đến năm 1938 (Mậu Thìn), nhà nước đào Sông Kiên Giang, Tim sông vào giữa nhà thờ buộc nhà thờ phải chuyển đi nơi khác, tường đất lợp rạ. Mãi đến năm 1991 đời Cha Giuse Vũ Công Phước về coi xứ là năm Tân Mùi, người cho xây mới đến năm 1992 (Nhâm Thân) thì hoàn thành.
5, Họ Giáo Nam Trạch
Thành Lập 1909 năm Kỷ Sửu, quan thầy Đức Bà Truyền Tin. Nhà thờ xây năm 1937 (Đinh Sửu), đại tu 1991 (Tân Mùi).
6, Họ Giáo Quảng Châu
Thành Lập 1936 (Bính Tý), quan thầy Thánh Tâm Chúa Giê-su, nhà thờ xây năm 1937 (Đinh Sửu), sửa lại 1962 (Nhâm Dần), xây mới lần thứ 3 năm 1992 (Nhâm Thân).
7, Họ Giáo Quan Trạch
Quan thầy Thánh Giuse, Nhà thờ xây năm 1938 (Mậu Dần), đại tu 1998
8, Họ Giáo Vát Cấp
Quan thầy Thánh Ba-tô-lô-mê-ô.
9, Họ Giáo Nam Trại
Thành Lập 1875, Quan thầy Thánh Phê-rô Tử Đạo, thờ vua Tự Đức. Nơi này là một mảnh đất hoang vu, sau đó có vài gia đình ở Bác Trạch ra lập ấp khai hoang, tới năm 1865 số gia đình này đã ổn định. Họ cùng nhau xin lập họ giáo mang tên họ giáo Nam Trại, và nhận thánh Phê-rô Vê-rô-na Tử Đạo làm quan thầy.
Đến ngày 29/4/1877, Cha xứ Gioan Ninh đã dâng lễ tại thánh đường họ giáo và chính thức công bố sắc lệnh thành lập họ. Tới năm 1889, vì số giáo dân ngày một gia tăng, toàn thể họ giáo được Đức Cha địa phận cho phép xây lại ngôi thánh đường lớn hơn năm 1909 (Kỷ Dậu), số giáo dân tăng nhiều, Đức Giám Mục cho phép Cha Phạm Kim Bảng xây thêm gian cung thánh có tôn cao nền thờ. Cha Phạm Kim Bảng chia ra thêm một họ giáo nữa lấy tên là họ giáo Nam Trạch.
Năm 1936 (Bính Tí), Nam Trại lại chia thêm một họ nữa gọi là họ Quảng Châu.
Năm 1964 (Giáp Thìn), Nam Trại lại tôn tạo ngôi thánh Đường dưới thời Đức Cha Dominic Đinh Đức Trụ và Cha xứ bản quản bấy giờ là Cha Gioan Baotixita Trần Du Đồng.
Đến ngày 7/10/1997 (Đinh Sửu), Đời Cha xứ Giuse Vũ Công Phước là linh mục thou 50 tới quản nhiệm Bác Trạch, ngài cho cất Tân Khoa ngôi Thánh Đường với đường nét tay nghề tân thời đại và đúc lại 2 quả chuông.
Ngày 7/10/1997 (Đinh Sửu), Cha chính Cẩm cử hành Thánh Lễ đặt viên đá đầu tiên, vào lúc 11h30.
Ngoài 9 họ ra trong địa hạt nhà xứ Bác Trạch còn phân chia ra làm bốn khu để tiện việc điều hành hưởng ứng các thủ tục, nghi thức của Giáo Hội, như các lễ trọng hàng năm, có tên gọi thứ tự như sau:
1. Khu Y Nhân, nay gọi là khu 1.
2. Khu Hợp Nghĩa, nay gọi là khu 2.
3. Khu Nam Bình, gọi là khu 3.
4. Khu Tây Ninh, gọi là khu 4.
Thời kỳ này các ông phụ trách khu gọi là các ông cán khu, còn nay gọi là ông quản khu.
PHẦN 5. NHỮNG BÔNG HOA TRÊN MẢNH ĐẤT TỔ HÔM QUA VÀ HÔM NAY.
Bác Trạch nơi có bề day về Đức Vâng lời, tiền nhân tổ tiên ta sẵn có trí khí, mến đất yêu đồng, một name hai sương, dù lên thác xuống gềnh, trèo non lội suối mà đổ mồ hôi đổi lấy bát cơm, nhưng vẫn giầu lòng mến Chúa yêu Tổ Quốc. Tuy thiếu ăn ít học, xong cha mẹ vẫn thắt long buộc bụng, nuôi day con cái cho ăn học, nhằm mai sau có phần nhờ.
Những cơn mộng đời, các cụ đã sớm được Thiên Chúa mời gọi vào hàng ngũ dân người. Như Cha Phê-rô Trần Đình Khắc sinh 1906(Bính Ngọ). Đến năm 1921 (Tân Dậu) được 15 tuổi bắt đầu đi tu dâng mình trong nhà Chúa.
Năm 1924(Giáp Tý) vào tiểu chủng viện Ninh Cường
Năm 1930(Canh Ngọ) vào Đại Chủng viện.
Năm 1938(Mậu Dần) thụ phong Linh mục, do Đức Cha Dominic Hồ Ngọc Cẩn Truyền Chức. Song được Đức Cha sai về chủng viện Ninh Cường và Trung Ninh, được 3 năm sau làm giáo sư tiểu chủng viện. Đến năm 1941 được sai về làm phó xứ Phạm Pháo. 1 năm sau, đi coi xứ Triệu Thông, được 2 năm coi xứ Liên Ngạn, 6 năm sau về coi xứ Hòa Định, được 3 năm.
Năm 1945 vào Nam làm tuyên úy cho dòng Mến Thánh Giá gốc Bùi Chu. Khi ấy còn tạm cư trú tại xã Quý Sơn, tỉnh Mỹ Tho, được 1 năm rồi về ở với Cha Mai Ngọc Khuê, giúp giáo xứ Tân Sa Châu. Sau lại sang giúp xứ Nghĩa Hòa rồi lên xứ Trung Chánh. Sau đó Đức Cha lại sai đi giúp xứ Tân Bùi Chu, được 3 năm rồi chẳng may bị tai nạn xe cán gay xương sườn nên tuổi già sức yếu, xin Đức Cha về an dưỡng tại An Dưỡng Bùi Chu được 1 năm.
Ngày 14/4/1971 (Tân Hợi), có lời mời của Giám Đốc Nữ Tu Viện Nazaret yêu cầu với sự chấp thuận của Đức Giáo Mục Xuân Lộc, lại ra làm tuyên úy cho nữ tu viện Nazaret tại xứ Bến Đá Vũng Tầu.
2. Cha Phê-rô Trần Đình Lưu (Cha Giáo Lưu).
3. Cha Hier Phạm Quang Tự, sinh tháng 9 năm 1917, tại khu 2 xóm 5 Bác Trạch – Vân Trường – Tiền Hải.
Ngày 29/4/1933 năm Quý Dậu, khởi tu tại Phú Nhai Nam Định
Ngày 13/8/1933 Nhập tiểu chủng viện Ninh Cường Nam Định.
Ngày 30/9/1936 nhập đệ tử chủng viện Đa Minh Hải Dương
Ngày 20/11/1937 nhập tập viện Đa Minh Quần Phương
Ngày 25/10/1938 nhập học viện Đa Minh tại Hương Cảng
Ngày 13/11/1938 khấn dòng Đa Minh tại Hải Dương
Ngày 01/4/1941 Nhập Giáo Hoàng chủng viện Khoái Đồng Nam Định.
Ngày 3/6/1944 Thụ phong Linh Mục tại Khoái Đồng, do Đức Cha Santos Urbera Ninh thụ phong.
Ngày 3/6/1944 Phó xứ Khoái đồng
Ngày 13/11/1946 Phó xứ Cao Xá Hưng Yên
Ngày 01/10/1948 Phó xứ Quỳnh Lang Thái Bình
Ngày 2/10/1950 Giáo sư tu viện Đa Minh Hải Dương.
Ngày 23/10/1953 Chánh xứ Khoái Đồng Nam Định.
Ngày 18/9/1955 Chánh xứ Hố Nai Biên Hòa Đồng Nai
Ngày 21/9/1965 Giám đốc đệ tử Đa Minh, tu viện trưởng Gò Vấp.
Ngày 29/4/1970 Làm Bề Trên Tổng Quyền Đaminh
Ngày 25/3/1973 Linh Hướng Nữ Tu Đa Minh Hố Nai
Ngày 15/3/1979 Tu viện trưởng Đền Thánh Martino
Nay tuổi cao sức yếu nên nghỉ hưu tại Đền Thánh Martino
Năm 1951, ngài được Tòa Khâm sứ cử đi tháp tùng và chuyên viên cho đoàn Giám Mục Việt Nam đi Tòa Thánh.
4, Hier Phạm Ngọc Giá
Sinh tháng 7/1937 thuộc giáo khu 1 xóm 5 Vân Trường Tiền Hải Thái Bình
Thụ phong linh mục tháng 5/1968.
Năm 1952-1953 Cha Tôma Trần Mỹ Cẩm mời vào nhà xứ Bác Trạch day học cho các cậu.
Năm 1954 nhập trường Đa minh Mỹ Đức.
Tháng 10/1954 vào chủng viện Phan Rang
Năm 1959 Học Triết học
Năm 1960 vào chủng viện Sài Gòn
Năm 1962 Tập giảng tại Hố Nai
Năm 1964 học thần học
Năm 1968-1971 phó xứ Hoàng Mai.
Năm 1992 làm Chánh xứ Đức Tin
Năm 1994 Chánh xứ Tân Chí Linh
Tháng 10/1994 Hưu dưỡng
Ngày 28/12/1999 từ trần tại bệnh viện chợ Raay Thành phố Hồ Chí Minh.
5, Cha Hier Đặng Cao Bằng
Chịu chức linh mục 1968
6, Cha Hier Nguyễn Phúc Hạnh
Sinh ngày 1/11/1942, tại giáo khu 2
Thụ phong Linh Mục 31/5/1965
7, Cha Hier Nguyễn Văn Đạo
Sinh ngày 14/9/1945, tại xóm 5 Bác Trạch
Thụ phong Linh Mục 15/8/1972
8, Cha Nguyễn Ngọc Ban
Sinh 1931, tại giáo họ Quan Trạch, xã Bắc Hải Thái Bình
Thụ phong linh mục tháng 7/1958
9, Cha Luca Nguyễn Thanh Bình
Sinh 1928, tại giáo họ Công Bồi xã Phương Công Thái Bình
Thụ Phong linh mục 27/7/1958, tại Hoa Kỳ
10, Luca Nguyễn Văn Định.
11, Phê-rô Trần Văn Điển.
12, Đaminh Nguyễn Văn Đạm
13, Hier Nguyễn Ngọc Hinh
14, Cha Đề.
Ngoài các linh mục ra, Bác Trạch còn có những hương vị thơm mát trong linh dược cao đẹp, họ cũng là con người nội chợ, mang trong mình một giai điệu là người mẹ, đó là các Nữ Tu. Họ đã cống hiến cả một cuộc đời riêng tư cho thế hệ siêu nhiên, và thực hiện hãy vì tương laic ho thế hệ mai sau.
Như ngọn đèn của các cô trinh nữ, bước đường tu hành của các Dì là cái nôi ru ngủ cho tuổi đời 20.
1, Dì Filomena Trần Thị Ngọt – Đa minh Nam Định
2, Dì Filomena Nguyễn Thị Huệ
3, Teresa Nguyễn Thị Thanh – Mến Thánh Giá Tân Lập
4, Teresa Avila Bùi Thị Thỏa – Mến Thánh Giá Tân Lập
5, Teresa Ngô Thị Khuyên – Mến Thánh Giá Tân Lập
6, Maria Nguyễn Thị Thanh – Mến Thánh Giá Tân Lập
7, Phạm Thị Nụ – Mến Thánh Giá Tân Lập
8, Maria Nguyễn Thị Lê – Mến Thánh Giá Tân Lập
9, Maria Nguyễn Thị Nhài – Mến Thánh Giá Tân Lập
10, Teresa Bùi Thị Huyền – Mến Thánh Giá Tân Lập
11, Teresa Bùi Thị Ánh – Mến Thánh Giá Tân Lập
PHẦN 6. CÁC LINH MỤC ĐẾN GIẢNG ĐẠO Ở BÁC TRẠCH.
1. các cha Ngoại Quốc.
1, Cha Tế – 1735.
2, Cha chính Gia – 1770
3 Cha Tràng Huấn – 1875 – 1879.
4, Cha Chính Ninh 1877.
5, Cha Tràng Thái 1877.
6, Cha Già Lương 1880-1887.
7, Cha Tràng Vọng 1889.
8, Cha Tràng Bình 1890.
9, Cha Hòa 1893.
10, Cha Tràng Tín 1895.
11 Cha Tràng Tú 1929.
12 Cha Tràng Kiên 1931.
13, Cha Tràng Nam 1932.
14 Cha Quang 1884.
15, Cha Tràng Hạnh 1927.
16 Cha Tràng Nhuận 1917.
17 Cha Cảnh 1927.
2. CÁC CHA BẢN QUỐC.
1, Cha Án 1760; 1860-1864
2, Cha Lý 1769
3, Cha An 1858
4, Cha Quản 1864
5, Cha Huỳnh 1867
6, Cha Báu 1858
7, Cha Tuấn 1868
8, Cha Trác 1870
9, Cha Phú 1910
10, Cha Trạch 1911
11, Cha Tô-ma Hoàng 1910
12, Cha Liêm 1918
13, Cha Thúc
14 Cha Nguyện
15 Cha Liển
16 Cha Kim
17 Cha Khoát 1937
18 Cha Bảng 1933
19 Cha Hậu 1942
20 Cha Hiếu
21 Cha giáo Năm 1944
22 Cha Triêm 1947
23 Cha Thái 1913
24 Cha Thiệp 1948
25 Cha Hiệt 1949
26 Cha Tú 1951
27 Cha Lượng 1949
28 Cha Khuông 1949
29 Cha Cẩm 1953
30 Cha Gioan Trần Du Đồng 1946
31 Cha Phanxico Học 1977
32 Cha Giuse Vũ Công Phước
33 Cha Aug Nguyễn Quang Huy
PHẦN 6. CÁC KHÓA TRÙM.
Lần theo sử qua các sắc phong, ta đi ngược lại các năm tháng của các đời xưa cho thấy.
Năm Cảnh Hưng 1788, đã có xã Quan Bác Bác Trạch và Quan Cao thuộc tổng Cao Mai huyện Châu Định Tỉnh Nam Định, trải qua nhiều chiều như Lê Chiếu Thống, Minh Mạng, Tự Đức, Thiệu Trị, Đồng Khánh đến thời vua Thành Thái 1890 thành lập Tỉnh Thái Bình, ba Làng bay giờ thuộc xã Vân Trường là xã riêng về tổ chức, về công giáo
Từ khi các Đấng tới truyền bá Đức tin và gieo giống Tin Mừng và xây dựng lối nguyện ngắm sớm tối cho giáo dân, thành lập nhà giáo, nhà thờ, những nơi này đều có thành lập một bộ máy giúp việc, còn có tên là Ban Hành Giáo. Ban này có nhiệm vụ giúp Cha xứ và giáo dân nhằm mục đích đôn đốc xếp đặt và thực hiện lịch phục vụ hàng tuần trong tháng của Giáo Hội.
Ban trùm tiên khởi ở Bác Trạch.
Vị tiên khởi là ông Dom Bùi Văn Sử, ông trùm Phức, ông trùm Châu, ông trùm Ân, ông trùm Soạn, ông trùm Hòe
Đến 1933, có ông Hier Phạm Quang Sước trùm chánh, ông trùm hai là ông Hier Nguyễn Đình Quý, ông Hier Phạm Quang Xứng, ông Hier Nguyễn Văn Kình trùm hai và kiêm trùm chánh thay cụ Xứng. Hông Hier Nguyễn Bá Ngạc khu hai làm trùm 2. Cụ Hier Nguyễn Đình Hơn khu 2 làm trùm 2 thay cụ Ngạc lên làm trùm chánh.
Những năm trên ngoài ban trùm ra, còn có bốn ông làm bốn trưởng khu
Khu Y Nhân (khu 1) Ông Hier Phạm Văn Yêng làm trùm từ 1933 -1976
Khu Hợp Nghĩa (khu 2) Ông Hier Trần Văn Nguyên.
Khu Nam Bình (Khu 3) Ông Hier Nguyễn Thanh Vân.
Khu Tây Ninh (khu 4) Ông Hier Nguyễn Cao Thăng
Từ 1955, cụ Hier Nguyễn Văn Long làm trùm chánh kiêm chánh trương Hàng Phủ, cụ Hier Phạm Bá Tụy làm trùm đến năm 1963.
Năm 1964, Cụ Hier Trần Văn Cáp, làm trùm hai thay cụ Tụy mãn hạn.
Cụ Long từ 1954 đến 1975 qua đời thì cụ Hier Trần Cáp lên thay. Ông Nguyễn Văn Cử làm trùm hai.
Cụ Cáp làm trùm từ 1968 – 1989.
Cụ Hier Nguyễn Cử làm trùm được 3 tháng thì qua đời và ông Hier Nguyễn Thanh Vân lên thay.
1982 – 1989 ông Phạm Văn Rong làm thư ký, quản giáo và ban trùm
1933 các ông dưới nay làm cán khu và trương nam, trương nữ
Khu 1, ông Hier Phạm Văn Yêng 1933-1976
Khu 2 ông Hier Nguyễn Huy Thá.
Khu 3 ông Hier Bùi Văn Thỏa.
Khu 4 ông Hier Ngô Văn Khích
Về trương đồng nam từ 1930-1946
Khu 1, ông Hier Nhâm
Khu 2 ông Hier Thậm
Khu 3 ông Hier Huệ
Khu 4 ông Hier Vóc
Từ 1946 đến 1956 có các ông
Khu 1, ông Hier Nguyễn Văn Dư
Khu 2, ông Hier Nguyễn Văn Hóa
Khu 3 ôgn Hier Nguyễn Văn Hựu
Khu 4 ông Hier Nguyễn Văn Vát
Về Trương nữ
Khu 1, bà Philomena Quyên
bà Philomena Cừ (bà Chánh cừ)
bà Philomena Phán (bà Cán Phán)
Bà Philomena Tám (bà Trương Tám)
Bà Philomena Chiến (cụ Phần Chiến)
Bà Philomena Hảo (bà Trương Hảo)
Bà Philomena Mai (bà Trương Mai)
Khu2, Bà Philomena Ba (cụ cửu Ba)
Bà Philomena Chu (cụ Phó Chu)
Bà Philomena Ruỗn (cụ Đoàn Ruỗn)
Bà Philomena Lễ (cụ Trương Lễ)
Bà Philomena Yến (cụ Hào Yến)
Bà Philomena Thỏa (cụ Thỏa Bến)
Bà Philomena Niêm (bà Trương Niêm)
Khu 3, Bà Philomena Tỵ (bà Trương Tỵ)
Bà Philomena Ty (bà trương Ty)
Bà Philomena Kỳ (bà trương Kỳ)
Bà Philomena Nhân (bà Trương Nhân)
Khu 4, Bà Philomena Hiệt (cụ Phó Hiệt)
Bà Philomena Hải (bà Chủ Hải)
Bà Philomena Kiều (bà Trương Kiều)
Bà Philomena Đĩnh (bà Trương Đĩnh)
PHẦN 7. BÁC TRẠCH NGÀY NAY.
Dưới thời chủ chăn tiền nhiệm, Cha Giuse Vũ Công Phước, các đoàn hội được phát triển lớn mạnh, các nhà thờ được tu sửa, trong đó có nhà thờ Công Bồi, Nam Trại, Quan Cao được xây dựng mới.
Hiện nay dưới sự chăn dắt của Cha Aug. Nguyễn Quang Huy, cha xứ thứ 51, nhà thờ Bác Trạch đang được xây dựng, nhà xứ, thư viện, đài Đức Mẹ La Vang, các họ giáo Phương Trạch, Cao Bác, Vát Cấp
- Title : GIÁO XỨ BÁC TRẠCH | GIỚI THIỆU-WEB
- Posted by :
- Date : 11 tháng 10
- Labels : giáo phận, xứ khác